Quản lý không gian kiến trúc cảnh quan trong các khu nhà phức hợp của Thành phố Đà Nẵng ⭐


Quản lý không gian cảnh quan kiến trúc (KGKTCQ) trong những khu nhà phức hợp của TP Đà Nẵng không còn là ý tưởng mới mà đấy là một nhiệm vụ vừa cấp thiết vừa mang sách lược trong quy hoạch phát triển đô thị Đà Nẵng. Bài viết đề ra hai vấn đề, vừa có tính thời sự, vừa là những bài học từ Quản lý quy hoạch của những nước, bàn luận và kiến nghị những phương pháp phù hợp đóng góp phần hoàn chỉnh hệ thống quy hoạch và bảo vệ kết quả quy hoạch phong cảnh thành phố: (1) Phát triển hỗn hợp, (2) Tích hợp phát triển kinh tế, văn hóa xã hội và hệ sinh thái không gian KTCQ trong những khu nhà phức hợp. Khi giải quyết hai vấn đề này, bài báo nhấn mạnh đến các khu nhà phức hợp – 1 phần quan trọng tham dự tạo thành và phát triển các khu vực trung tâm, đồng thời cũng chính là loại hình ở công nghệ cao, thành phần tạo xương sống cho sự tiến lên của TP. Do vậy, tác giả lấy các khu nhà phức hợp như 1 trường hợp điển hình để kiến nghị, góp thêm phần dẫn chứng cụ thể.

Đặt vấn đề

Quản lý KGKTCQ trong những khu nhà phức hợp TP Đà Nẵng có ít nhất hai vấn đề: (1) Phát triển hỗn hợp: Trong đó nhà ở và dịch vụ được tích hợp. Thiết kế giao diện giữa tầng trệt và vỉa hè đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ hoặc ngăn ngừa sự gặp gỡ giữa toà nhà và TP (Gehl 2012[9]). Gehl cũng cho rằng mặt tiền với tầng trệt mở tạo điều kiện cho sự gặp gỡ của các toà nhà với TP cũng như tạo ra cuộc sống vỉa hè sống động. Whyte (1980) nhấn mạnh tầm quan trọng của công viên và quảng trường là các không gian tương tác.

Tại những nơi có giá trị vị trí cao chỉ nên xây dựng các công trình công cộng có nhiều chức năng có thể cộng sinh. Các công trình kiến trúc cao tầng đơn lẻ, thiếu sự tương quan về tỷ lệ, về phông hình, điểm nhấn và đặc biệt thiếu các không gian công cộng nhiều chức năng, không đáp ứng sinh hoạt đa dạng của cộng đồng thì phải từ từ thay thế bằng những kiến trúc nhiều tầng cọng sinh, khu nhà ở phức hợp nhiều chức năng. Lý do chủ yếu là chỉ suy xét hiệu quả của dự án phát triển dưới góc độ kinh tế thuần túy, bỏ qua hiệu quả về môi trường và xã hội…

Trước đó chương trình đổi đất lấy hạ tầng trong phát triển đô thị là một chiến lược có chủ ý của TP nhằm hấp dẫn đầu tư tư nhân vào hạ tầng kỹ thuật và xã hội. Chương trình này cũng góp phần 1 phần tích cực cho TP nhưng mai đây đã có những lúc thất bại khi các nhà phát triển dường như không giao trả được hạ tầng như đã cam kết trong quy hoạch được duyệt. Mặt tiêu cực là việc vay mượn có thể dẫn đến sự xung đột với những người mong muốn giữ gìn bản sắc và văn hóa truyền thống của đất nước.

(2)Tích hợp giữa phát triển kinh tế, văn hóa xã hội và hệ sinh thái KGKTCQ trong những khu nhà phức hợp: Starke và Simonds [12] từng cảnh báo “Chúng ta xây dựng, phát triển ồ ạt để rồi tự đặt bẫy, biến mình thành nạn nhân của chính bản thân mình”. Phát triển không vững chắc đã tình cờ phá đi những giá trị sinh thái, thẩm mỹ tự nhiên, phong cảnh văn hoá, cổ truyền như Forman đã chỉ ra [8].

Sử dụng đất hỗn hợp đóng vai trò quan trọng trong phát triển đô thị bền vững (Jabareen 2006 [10]). Sử dụng đất hỗn hợp liên quan đến hỗn hợp hoạt động và dịch vụ. Từ quan điểm bảo vệ môi trường, các khu vực sử dụng đất hỗn hợp mang lại sự gần gũi giữa các hoạt động không giống nhau và làm giảm nhu cầu đi lại và sử dụng Oto. Trong khía cạnh công bằng xã hội, sử dụng đất hỗn hợp tạo ra những không gian đô thị khác biệt phục vụ cho những nhóm dân không giống nhau. Yêu cầu thay thế giao thông cá nhân như Oto và xe máy bằng hệ thống giao thông công cộng và tầm quan trọng của việc người dân tham dự lập quy hoạch đã được công nhận.

Khả năng tiếp cận được suy xét như là thước đo công bằng xã hội trong môi trường xây dựng và đề cập đến “Sự công bằng trong phân phối các tài nguyên” (Dempsey và cộng sự, 2011[7]).

Hoạt động trong những không gian công cộng tạo ra cuộc sống trong TP (Jacobs 1961, Gehl 2012 [9]). Sử dụng hỗn hợp và khả năng tiếp cận là những yếu tố cơ bản của không gian công cộng.

Hạ tầng xanh phải được xem là nền tảng của quản lý KGKTCQ trong những khu vực trung tâm, nơi có tiềm năng kinh tế cần phải được khai thác, phát triển hiệu quả. Xanh hoá (greening) là nguyên tắc thiết kế và quy hoạch quan trọng trong phát triển bền vững (Jabareen 2006 [10])

Xanh hoá kinh qua quy hoạch công viên và không gian xanh đô thị không chỉ làm tăng sức hấp dẫn đối với môi trường sống mà còn góp phần vào giao tiếp xã hội và ý thức cộng đồng.

Kết nối là một yếu tố bền vững của khu dân cư (Talen 2006 [13]). Chính quyền kiểm soát phát triển đô thị kinh qua định hướng và quy định.

Trong giai đoạn hiện tại, với sự chuyển đổi khí hậu toàn thế giới, Quản lý KGKTCQ trong những khu nhà phức hợp, với tư cách là 1 thành phần của môi trường tự nhiên, có vai trò quan trọng hơn khi nào hết. Đà Nẵng phát triển không thể không rút ra từ những bài học kinh nghiệm quý giá này.

Bàn thảo và hướng giải quyết vấn đề

Nhà nước chỉ giữ vai trò quản lý điều phối kinh qua các quy chế, chính sách và phê duyệt đồ án quy hoạch, việc quản lý, phát triển và vận hành hoàn toàn do các doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh tế không giống nhau thực hiện. Rõ nét là quá trình huy động các nguồn lực kinh tế này đã giảm hẳn gánh nặng nhà ở của Nhà nước, song cũng để cho nhà nước mất dần thế độc quyền trong công tác đô thị hoá (L. Pandolfi, 2010). Các nhà đầu tư, chủ yếu thường chỉ quan tâm tới hiệu quả kinh tế của dự án, trong lúc đó cư dân lại ước muốn hiệu quả về hệ sinh thái, văn hóa, xã hội. Do vậy, nhìn nhận sự tiến lên KTCQ dưới khía cạnh kinh tế, đưa tới nhiều hiệu quả đáp ứng được không ít chủ thể, là 1 vấn đề quan trọng của KTCQ trong nền kinh tế thị trường.

Xu hướng chủ đạo này cho thấy nhận thức về nội dung “lập quy hoạch có sự tham dự của cộng đồng” như là một yếu tố của phát triển đô thị bền vững. Và là sự ủng hộ mạnh mẽ cho trào lưu của các phản biện xã hội trên cơ sở đòi hỏi của các tầng lớp dân cư về sự dân chủ, công khai, minh bạch trong những quyết định liên quan đến quy hoạch, xây dựng và quản lý đô thị. Nó cũng là một yếu tố quan trọng làm ra sự ổn định xã hội tích cực, bảo đảm phát triển đô thị bền vững về mặt xã hội và chính trị. Tùy chỉnh Quy hoạch chung [4] đến năm 2030 tầm nhìn đến năm 2050 là rộng mở đô thị và cũng ứng dụng mạnh mẽ các xu thế vừa nêu.

Trên cơ sở các phân vùng cảnh quan việc bảo vệ các không gian mở là một trong những nguyên tắc giúp cân bằng hiệu quả kinh tế với các hiệu quả về văn hóa – xã hội và môi trường. Đây cũng là sự cụ thể hóa nguyên tắc phát triển trên cơ sở bảo tồn cảnh quan thiên thiên. Để đảm bảo KTCQ không gian trong những khu nhà ở phức hợp có tính hiệu quả cao, nó phải là nơi hấp dẫn được các hoạt động cộng đồng, hấp dẫn tới các không gian ẩm thực, mua sắm… Vì vậy, bên cạnh việc tạo thành KTCQ từng khu vực, cần xét đến các yếu tố giá trị địa điểm, vị trí… Các phân đoạn KTCQ không gian cũng cần tích hợp để tạo ra không gian KTCQ có các hoạt động cộng sinh, nâng cao hiệu quả thẩm mỹ, sử dụng địa điểm hợp lí.

Phương pháp tổ chức KTCQ hiệu quả trên cơ sở giá trị vị trí tổng hợp là 1 phương pháp phát triển có tính đến nhân tố “động” của tính hiệu quả đối với không gian xây dựng, cũng như không gian mở trong khu QH, bởi thế tại mỗi giá trị vị trí, cần định rõ trước phần không gian mở dành riêng cho hoạt động công cộng và phong cảnh tự nhiên là các không gian phải giữ gìn bảo vệ trước sự việc phát triển của KTCQ. Chính vì như thế, phương pháp tổ chức KTCQ hiệu quả cho khu vực này là QHCQ theo kiểu tập trung theo mô hình “KĐT nén”, sử dụng đất hoạt bát cho nhiều mục tiêu. Các công trình kiến trúc sẽ là vị trí ưu tiên phát triển các công trình nhiều tầng, hợp khối lớn. Đây sẽ được tưởng tượng là khu vực hấp dẫn các hoạt động du lịch, thương mại, giải trí…có tính chất như 1 khu “đô thị du lịch ”.

Hình 2.1. Sơ đồ định hướng tổ chức KTCQ. khu nhà phức hợp trên cơ sở các giá trị tổng hợp của địa điểm
Hình 2.1. Sơ đồ xác định phương hướng tổ chức KTCQ. khu nhà phức hợp trên cơ sở các giá trị tổng hợp của vị trí
Hình 2.2. Mặt cắt ngang KTCQ đoạn qua trung tâm đô thị đang phát triển mạnh – đặc trưng hình thái CQ là đường lòng chảo lõm mạnh về phía dưới
Hình 2.2. Mặt cắt ngang KTCQ đoạn qua trung tâm đô thị đang phát triển mạnh – đặc thù hình thái CQ là đường lòng chảo lõm mạnh về phía dưới

Phương pháp tổ chức không gian KTCQ vùng phong cảnh chuyển tiếp, giá trị tổng hợp của vị trí vẫn rất cao, đặc biệt các tiêu chuẩn về các thành phần nhân tạo và xã hội chiếm lợi thế. Các dự án KTCQ hiệu quả rất cần tính tới giá trị đầu vào cao, bởi thế cần tiết kiệm S diện tích đất. Trên cơ sở đó, bài báo kiến nghị phương pháp tổ chức KTCQ hiệu quả trong những khu nhà ở phức hợp có 3 cách thức quy hoạch phong cảnh như sau:

  • Kiểu chu vi, Không gian xây dựng tỷ lệ cao, hệ số sử dụng đất cao, và nhiều chức năng sẽ được sắp xếp vây quanh một không gian mở công cộng. Tuy vậy vẫn lấy góc tới hạn 45 độ để khống chế chiều cao các công trình nhiều tầng;
    Hình 2.3. Giải pháp tổ chức KTCQ kiểu chu vi, theo dải dọc tuyến cảnh quan
    Hình 2.3. Phương pháp tổ chức KTCQ kiểu chu vi, theo dải dọc tuyến phong cảnh
  • Phương pháp QHCQ kiểu ô cờ: Gồm có những dải cây cối tạo cấu trúc cho KGVS. Một mạng ca rô xanh cung ứng một khung cấu trúc không gian, trong đó các thành phần đô thị có thể được lấp đầy phía bên trong các ô đó. Kết quả là chúng ta có 1 mạng lưới các tuyến xanh kiểu ô cờ, kết nối các khu vực tính năng và với các không gian mở công cộng (hồ, ao, công viên, vườn hoa.)
Hình 2.4. Giải pháp QHCQ kiểu ô cờ
Hình 2.4. Phương pháp QHCQ kiểu ô cờ
  • Phương pháp QHCQ kiểu đan cài: Xác định phương hướng căn bản của phương pháp là đan xen giữa không gian trống và không gian xây dựng. Điều ấy cho phép ứng dụng cấu trúc phong cảnh P-C-M vào cấu trúc KTCQ KGVS nội đô. Sự liên lạc này cho phép chúng ta cân bằng mối liên hệ giữa không gian xây dựng và không gian mở tự nhiên.
Hình 2.5. Giải pháp QHCQ kiểu đan cài – sử dụng tại các vùng cảnh quan có hệ sinh thái cần bảo vệ
Hình 2.5. Phương pháp QHCQ kiểu đan cài – sử dụng tại các vùng phong cảnh có môi trường cần bảo vệ

Kết luận

  • Quản lý QHKTCQ cần đi trước một bước về tầm nhìn, trên cơ sở lý luận và thực tiễn, nhất là từ khía cạnh phát triển vững chắc để nhận được một thành phố chuẩn mực vừa phát triển vừa giữ được sắc thái Đà Nẵng – TP đáng sống, đặc biệt là trong những khu nhà phức hợp;
  • Khai thác các nguồn tài nguyên, tăng tính nhiều chức năng của phong cảnh, để tạo lên các hiệu lực ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế, và bảo đảm hệ sinh thái và các giá trị khác như thẩm mỹ, thưởng ngoạn, hay cao hơn là các giá trị xã hội như công bằng, đạo lý giữa người với người, người với tự nhiên…;
  • Cần phải có sự phối hợp giữa chính quyền, nhà đầu tư, nhà chuyên môn về KTCQ và đặc biệt là trên cơ sở vì ích lợi của nhân dân địa phương, nên cần phải có sự tham dự của họ để có lời nói chung…;
  • Cần phải có một hành lang pháp lý vừa mở, hoạt bát vừa khép, đặc biệt là nới rộng tính sáng tạo, xác định phương hướng sách lược trong quy hoạch nhưng nhất quyết hạn chế nghiêm khắc khi các giá trị bất đồng, đặc biệt là khi trong kế hoạch tổ chức KTCQ vượt ngưỡng cho phép, có ẩn chứa nguy cơ làm hỏng 1 phần hay các giá trị tổng thể trong tương lai.
  • Kinh nghiệm cho thấy Chính quyền khi nào cũng chính là nhân tố uy quyền mang tính quyết định triển khai cao tối đa, nhưng lại thường thiếu thông tin về chuyên môn và thông tin về nhà đầu tư. Do vậy, quan điểm chuyên gia và lấy quan điểm có xác định phương hướng sâu và rộng, đặc biệt là trong phản biện công tâm, là những giá trị cần tham khảo đúng mức.

tiến sĩ. Lê Thị Ly Na
Giảng viên Đại học Kiến trúc Đà Nẵng
© TCKT


Tài liệu tham khảo

Tiếng Việt
1. Bộ Chính Trị (2008), NQ số 33-NQ/TW về Xây dựng và Phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ CNH, HĐH quốc gia.
2. Lê Thị Ly Na, (2017), Tổ chức không gian KTCQ nhằm khai thác hiệu quả khu vực ven sông trong những đô thị duyên hải Trung Bộ (Ứng dụng cho thành phố Đà Nẵng). ( Luận án Tiến sĩ, trường Đại học Xây dựng thành phố Hà Nội).
3. UBND thành phố Đà Nẵng (2010), Quyết định số 7099/QĐ/17/9/2010 về phê duyệt tổng thể ngành TT,VH và Du lịch đến năm 2020.
4. Viện Quy hoạch Xây dựng TP Đà Nẵng, (2013), Tùy chỉnh Quy hoạch chung TP Đà Nẵng đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050

Tiếng Anh
5. Christensen, A. J.(2005), Dictionary of Landscape Architecture and Construction, McGraw Hill, New York.
6. Corner, J. (1999), Recovering Landscape, Princeton Architectural Press, New York.
7. Dempsey, N., Bramley, G., Power, S. and Brown, C. (2011). The social dimension of sustainable development: Defining urban social sustainability, Sustainable Development 19, pp. 289-300
8. Forman, R. T.(1995), Land Mosaics: The Ecology of Landscapes and Regions,Cambridge University Press, Cambridge.
9. Gehl, J. (2012).Cities for People, Island Press, Washington, DC, USA.
10. Jabareen, YosefRafeq (2006) Sustainable urban forms: Their Typologies, Models,
11. Robert, L., Thayer, Jr.(1977), Grey World, Green Heart: Technology, Nature and Sustainable Landscape, Wiley.
12. Starke, B., & Simonds, J. O. (2013), Landscape Architecture, Fifth Edition: A Manual of Environmental Planning and Design, Mc Graw Hill, New York.
13. Talen, E (2006) Design for Diversity: Evaluating the ContextofSocially
14. WALDHEIM, C. (2006), Landscape Urbanism – Reader, Princeton Architectural Press, New York.

Thêm nhiều thông tin hấp dẫn với BdsNhaDat.com.vn



T.H

Tham gia thảo luận

So Sánh BĐS

So sánh