Quá trình đô thị hoá để cho các đô thị ở Việt Nam ngày càng rộng mở, các vùng đất xanh bị đánh chiếm, ảnh hưởng tiêu cực lên môi trường và hệ sinh thái. Vùng đô thị mới không chỉ không cải thiện những vấn đề đang tồn tại nhưng mà càng để cho hệ sinh thái đô thị trở nên tồi tệ hơn. Nghiên cứu về thiết kế và quy hoạch nhằm đề ra những phương pháp thích hợp cho không gian xanh nội đô là khẩn cấp và khẩn cấp. Lấy Đà Nẵng làm một trường hợp cụ thể, bài viết này đề nghị quy hoạch hệ thống không gian xanh đô thị đa trung tâm dựa trên các quy tắc sinh thái phong cảnh nhằm hướng tới một môi trường đô thị vững chắc.
1. Các vấn đề của đô thị hoá
Đô thị hoá đã thay đổi diện mạo của đô thị và đưa tới nhiều ích lợi không giống nhau, mặc dù thế, tiến trình này được cho là lý do của sự hủy hoại hệ sinh thái sống của con người và sinh vật, nhất là sự biến đổi S diện tích đất nông thôn thành đô thị. Điều đó tạo lên những ảnh hưởng đáng nói tới công năng tự nhiên của môi trường (Turner 1994, Dewan and Yamaguchi 2009). Sau những năm 1980, chính sách “Mở cửa” đã được triển khai, các đô thị ở Việt Nam phát triển mạnh mẽ dẫn đến những vấn đề về hệ sinh thái mà lý do chính là sự thiếu vắng không gian xanh ở vùng đô thị (Pham 2002). Đà Nẵng là 1 thành phố trẻ với tiềm năng phát triển lớn trong các năm vừa mới đây. Tựa vào quy hoạch xác định phương hướng phát triển của thành phố Đà Nẵng đến năm 2030, đất phân bổ cho nông nghiệp như đất canh tác, rừng đặc dụng và rừng phòng hộ sẽ sút giảm vì sự chuyển dịch thành đất phi nông nghiệp, phát triển hạ tầng. Theo đó, đất xây dựng đô thị trung tâm sẽ gia tăng 280% vào năm 2020, 528% vào năm 2030 so với năm 2005. Mức độ xây dựng ở vùng ngoại ô, so với năm 2005, sẽ là minh chứng cho 1 sự tăng lên 200% vào năm 2020 và 300% vào năm 2030 (Do, Huang et al. 2018). Trong hoàn cảnh đô thị dàn trải mạnh mẽ, quy hoạch không gian cảnh quan xanh thích hợp có 1 ý nghĩa rất quan trọng.
2. Lý luận phong cảnh sinh thái học trong những vấn đề đô thị hoá
Lý thuyết sinh thái phong cảnh đã góp phần kiến thức quan trọng cho tiếp xúc khoa học xã hội, hướng đến chỉ dẫn sự đi lên vững chắc của đô thị trong hoàn cảnh rộng mở đô thị với tỷ lệ cao (Grimm, Faeth et al. 2008), (Wu 2008). Sinh thái học phong cảnh cung ứng những giải pháp và tiếp xúc để tìm hiểu các năng lượng ẩn chứa của không gian xanh đô thị. Mối liên hệ tích cực giữa độ đa dạng chủng loài và kích thước mảng đề nghị lý thuyết cụm về địa sinh vật là 1 hướng thích hợp cho việc nghiên cứu sinh thái học phong cảnh đô thị (Klausnitzer 1993).
Nghiên cứu cấu trúc cảnh quan không gian và kiểu mẫu không gian xanh được biết đến như 1 phương pháp quan trọng để nhận định chất lượng của vùng đô thị. Các cấu trúc phong cảnh được nhận xét trong một đơn vị của mảng kinh qua những đặc tính như là size kích cỡ, dáng hình, độ hỗn tạp, và đường biên (Forman and Godron 1986). Kinh qua những đặc tính này, một bộ quy tắc được sử dụng để nhận định bố cục và phân bố cảnh quan không gian (được coi là luật học phong cảnh). Bộ luật này hay được dùng trong việc biểu lộ đặc tính, nhận định và dự trắc những biến dị trong cấu trúc phong cảnh. Không gian xanh đô thị là 1 quy chuẩn quan trọng cho việc nhận định chất lượng cuộc sống đô thị (Huang, Yang et al. 2017). Không gian xanh xúc tiến các hoạt động vật lý, cảm nhận hạnh phúc, và sức khoẻ cộng đồng (Wolch, Byrne et al. 2014). Trong hoàn cảnh này, luật học phong cảnh là 1 công cụ hữu dụng cho việc nhận định kiểu mẫu không gian không gian xanh (Kong, Nobukazu et al. 2005). Bộ luật này cũng hỗ trợ nhận định sự thoả mãn của dân cư với cấu trúc không gian xanh (He and Morin 2012).
Lý luận về tập hợp quần chủng cung ứng một khung mẫu hứa hẹn cho nghiên cứu sinh thái đô thị. Thực vật xanh rải rác nội đô đóng một vai trò trung tâm trong lý thuyết tập hợp quần chủng. Quy mô của thực vật và sự kết nối của chính nó là 1 yếu tố quan trọng trong việc tạo thành sự phong phú chủng loài trong phong cảnh đô thị. Lý thuyết của sinh thái học phong cảnh có thể cung ứng những quy tắc chỉ dẫn cho quy hoạch và quản lý đô thị, cụ thể là tính kết nối giữa những không gian xanh, nhân tố có thể cải thiện, tạo thành những hành lang các lưu dòng, các lối xanh. Các lối xanh được ứng dụng như 1 hành lang cho những lưu dòng trong vùng đô thị, nơi đó giúp gia cố kết nối giữa những vùng đô thị và là gắn kết giữa công viên, vườn công cộng ở tỉ lệ khu ở (Tan 2006).
3. Các quy tắc của sinh thái học phong cảnh
Những quy tắc phong cảnh và môi trường vùng có thể ứng dụng vào bất kì một khảm đất nào. Hệ thống này tựa như một sinh vật, nó có 3 đặc tính phổ quát đấy là cấu trúc, công năng và sự thay đổi.
Cấu trúc phong cảnh là 1 kiểu mẫu không gian, một tổ chức của những nhân tố phong cảnh. Công năng là các lưu dòng của động, thực vật, vật chất và năng lượng xuyên suốt qua các cấu trúc. Và sau cuối, sự thay đổi là các động lực hoặc nguồn năng lượng thay thế ở kiểu mẫu không gian và công năng qua thời gian.
Kiểu mẫu cấu trúc của phong cảnh gồm có 3 nhân tố: Mảng, hành lang và ma trận, được xem là chìa khoá cho quy hoạch sử dụng đất, cảnh quan kiến trúc và thậm chí kiểm soát che phủ cả những lưu dòng sinh vật và sự thay đổi.
Vì vậy, ứng dụng những quy tắc này (phong cảnh và vùng, mảng và hành lang); khảm đất có thể được xây dựng và phối hợp những không gian xanh không giống nhau thành một hệ thống không gian xanh để tạo dựng hệ sinh thái vững chắc cho vùng đô thị.
4. Giải pháp phân tích
Trước tiên, một phân tích định tính được triển khai dựa trên những hình ảnh, map bản đồ quy hoạch cũ, bản tổng quy hoạch, và thực trạng của Đà Nẵng. Tiếp sau, một phân tích định lượng hệ thống không gian xanh được triển khai để nhận định các đặc tính của kiểu mẫu phong cảnh sử dụng đất, một bộ luật học không gian được tính toán ở cấp độ phong cảnh (Bảng 1).
5. Đề nghị quy hoạch hệ thống không gian xanh toàn diện
(i) Thuỳ xanh
Các thuỳ xanh được tận dụng từ các vùng biên được rừng bao trùm, nơi kết nối với vùng đô thị (hình 1). Các thuỳ xanh của đô thị chủ yếu xuất hiện ở phía Tây và phía Bắc, nút giao thoa giữa chân của dãy Trường Sơn, đèo Hải Vân, Bà Nà với vùng đô thị; Phía Tây có Sơn Trà – một thuỳ xanh lớn như 1 vùng bảo tồn sinh thái và cuốn hút du lịch.
Tính kết nối của những thuỳ xanh tựa vào tất cả các nhân tố làm ra hệ thống ma trận xanh trong vùng ngoại ô. Thuỳ xanh giới hạn sự nới rộng đô thị và sự đi lên xuôi theo các đường vành đai cắt ngang các thùy xanh. Phát triển các thuỳ xanh này còn có thể được nhìn nhận như 1 sự bảo vệ đặc biệt để hạn chế sự lan rộng ra của đô thị.
(ii) Các nhánh hẹp của đô thị
Đà Nẵng tọa lạc ở vùng duyên hải với chiều ngang hạn chế, do đó sự chọn lựa cho việc phát triển đô thị gặp nhiều giới hạn. Trong đó, sự rộng mở đô thị về phía Tây và phía Nam sẽ đánh mất sự kết nối giữa vùng đô thị và thuỳ xanh; đồng thời, sự tương tác của những mảng xanh giữa những vùng sát biển và ven sông cũng sẽ ảnh hưởng sút giảm. Với sự sinh trưởng và lan toả của vùng đô thị, các nhánh hẹp của đô thị đã đánh chiếm các không gian xanh của vùng ngoại ô. Trong quy hoạch tương lai của Đà Nẵng, các nhánh hẹp này đã rộng mở đáng kể đô thị hướng về phía Tây Bắc, Phía Tây, phía Nam và phía Tây Nam (Hình 2).
(iii) Hệ thống không gian xanh
Hệ thống không gian xanh được xác lập dựa trên những đặc thù về văn hoá, hoàn cảnh đô thị, địa hình, địa mạo, và những vùng bảo tồn chính (Hình 3).
– Lối xanh xung quanh cảng hàng không: Tọa lạc ở khu vực trung tâm thành phố, nơi có tỷ lệ dân số cao nên cảng hàng không này gây ra nhiều không ổn định và hạn chế cho những khu vực cư dân vòng quanh; có thể nói tới những không có lợi nghiêm trọng, đấy là: Mức độ độc hại tiếng ồn cao, hạn chế đáng kể về mặt xây dựng. Vì vậy nhất thiết phải đề nghị xây dựng những lối xanh, vành đai vòng quanh đường biên của cảng hàng không để cải thiện điều kiện vi khí hậu, giảm tiếng ồn cho các khu vực cư dân gần kề. Phương pháp đề ra là: Những dải đất hẹp quy mô 1-2 dãy nhà tiếp cận trực tiếp với tường chắn cảng hàng không ở đường Trường Chinh và Lê Đại Hành buộc phải di dời và biến đổi thành những không gian mở hoặc các công viên nhỏ (hình 3-2).
– Ban công xanh đô thị: Có thể nói rằng sông Hàn như là 1 ban công lớn của Đà Nẵng. Tuy vậy, với sự khuyến nghị đầu tư phát triển tại các khu vực ven sông, các công trình lớn, công trình mang tính biểu tượng được xây dựng và đang đánh chiếm không gian mở này, che khuất tầm nhìn, mất đi sự thoáng đãng, đồng thời phá vỡ không gian tự nhiên của đô thị này.
Ban công xanh nhằm mục tiêu nới rộng thêm các không gian mở giữa những vùng đô thị. Thêm vào đó, các lối xanh nội đô hướng về phía hành lang sông sẽ đưa tới cảm nhận tích cực cho con người, để cho họ tiến gần hơn đến mặt nước. Trong hình 3-4, sự bố trí các lớp cây cối ven sông giúp che nắng và tạo thành những không gian riêng tư cũng như chống lại gió lạnh vào mùa Đông, nhưng lại không che chắn tầm nhìn của người dùng. Sự giao cắt của người đi dạo với giao thông tỷ lệ cao nên tách rời bằng những lối đi dạo ngầm hoặc cầu vượt ở các địa điểm giao nhau. Những trung tâm mua sắm, công trình xây dựng ở bờ Tây và Đông nên được đề nghị cho việc phát triển các không gian mở với cây cối ở những vùng phụ cận thay cho những không gian chồng lấn, đánh chiếm và lấy đất công cộng cho các ích lợi cá nhân.
Dựa trên quan đặc điểm này, ban công xanh và lối xanh sẽ tạo thành nên một cấu trúc xương sống cho lối đi dạo trong thành phố. Bằng chứng rõ ràng là kinh nghiệm tổ chức không gian mở ven sông đã được thực thi thành công ở Singapore, Hongkong, Trung Quốc và Nhật Bản.
Nhân tố thẩm mỹ trong việc chọn lựa loại cây cối cũng cần phải được lưu ý. Các loại cây cối che bóng mát như là Samanea saman, Peltophorum pterocarpum, Hopea odorata, Mimusops elengi, and Khaya senegalensisare là những loại cây nên được trồng để đẩy mạnh bóng mát cũng như trở thành một biểu tượng cho đô thị. Việc chọn loại cây cối theo ý kiến thẩm mỹ là rất khẩn cấp và thích hợp với mục đích phát triển thành phố du lịch và dịch vụ của Đà Nẵng.
– Vành đai xanh sát biển: Vành đai xanh sát biển nối dài xuôi theo phía Đông của đô thị được chia ra 2 phần: Phần đầu bao bọc Vịnh Đà Nẵng, phần còn lại bắt đầu từ bán đảo Sơn Trà nối dài đến hết vùng biên phía Nam.
Ở ven vịnh Đà Nẵng, cần quy hoạch, xây dựng một hệ thống công viên dài với đường dạo đi chạy xuôi theo bãi biển (Hình 3-5,6). Những dải cây cối che chắn nên được tổ chức với 1 góc lệch so với đường bãi biển để tạo lên một lớp chắn gió, nhưng không che chắn tầm nhìn (Hình 4b). Ở các vùng sát biển phía Bắc, do tỷ lệ cư dân và người dùng thấp, các vành đai cây cối có thể được bố trí thành những dải liên tiếp, phối hợp với những lối hẹp kết nối bờ biển với các hành lang phía bên ngoài vành đai để phục vụ cho những hoạt động Sport thể thao giải trí vào mùa nắng; về mùa mưa các dải xanh này sẽ làm nhiệm vụ che chắn, hỗ trợ và phục vụ cho những hoạt động sinh hoạt vui chơi, giải trí ở hệ thống công viên phía bên phía trong vành đai (Hình 4a).
Vành đai xanh ở bãi biển phía Đông được che chắn 1 phần bởi các khu nghỉ dưỡng được xây dựng ở cuối tuyến phố về phía Nam. Lối xanh nối dài từ trung tâm đô thị xuyên thẳng qua hành lang sông và được kết nối với vành đai này kinh qua những điểm kết nối (Hình 3,4,5,6). Với đặc thù về địa hình cũng như bãi biển dài và độ dốc thoải, khoảng cách giữa đường giao thông đến mép nước khoảng hơn 300 mét (vùng đệm trung tâm); trong đó, các công viên sát biển và quảng trường hiện nay phục vụ cho những lễ hội biển vào mùa hạ được phủ xanh với mức độ rất khiêm tốn. Các lối đi dạo và quảng trường cần phải được sắp đặt phía bên ngoài và bên phía trong các dải cây cối tương ứng để phục vụ cho những hoạt động công cộng và đồng thời chúng cũng phải được sắp đặt đan xen với các vành đai xanh (Hình 5). Mô hình trên đã được chứng tỏ thành công trong trường hợp thành phố Chicago – Mỹ, các vành đai xanh đã làm tốt nhiệm vụ che chắn cho đô thị khỏi những ảnh hưởng từ biển hồ Michigan.
(iv)Hành lang sông ngòi
1 phần của sông Hàn chảy qua trung tâm đô thị, những phần khác tọa lạc ở các đô thị vệ tinh với tỷ lệ dân số và xây dựng thấp hơn. Cùng với thực trạng và xác định phương hướng quy hoạch tầm nhìn 2030-2050, khu vực thượng lưu của sông Hàn, xuôi theo 3 nhánh sông Đô Toả, Cẩm Lệ, Cổ Cò chảy qua các vùng đô thị mới với địa hình trũng và đất ngập nước, đã được san lấp để cung ứng đất cho vùng đô thị mới, các khu cư dân và khu công cộng. Sự phối hợp giữa sinh thái đất ngập nước và không gian xanh như 1 tổng thể tạo thành những kiểu mẫu không gian và sinh thái phong phú; các bờ dốc ven sông có thể được quy hoạch thành các công viên ven sông nơi mà các không gian mở có thể được tiếp xúc nhanh gọn, dễ dàng bởi cư dân trong khu vực hay các khu vực gần kề (Hình 3-3).
(v) Không gian xanh đẩy mạnh
Các không gian xanh đề cập trên đã hình thành cấu trúc chính của hệ thống không gian xanh đô thị. Vì vậy, đẩy mạnh không gian xanh là khẩn cấp để kết nối các tuyến chính trong hạ tầng xanh của Đà Nẵng. Một đề nghị đáng lưu ý là có thể tái sử dụng hệ thống đường sắt cũ để cải thiện công năng giao thông công cộng còn thiếu, đồng thời hỗ trợ đắc lực cho tuyến du lịch nội bộ với những hành lang xanh bao phủ nhằm đẩy cao giá trị du lịch của thành phố này.
Thêm lần nữa, các luật lệ về không gian xanh trong khu ở, và nhà gia dụng giúp tạo lên các ma trận xanh rải rác trong toàn thể đô thị.
6. Kết luận
Phong cảnh sinh thái đô thị là 1 lĩnh vực nghiên cứu khá mới với các nhà nghiên cứu và quy hoạch đô thị Việt Nam. Vì vậy, rất cần các nghiên cứu thận trọng và tỉ mỉ. Dựa trên những hiểu biết của tác giả về tình hình thực tiễn và hoàn cảnh đô thị Đà Nẵng, cùng với việc tìm hiểu về quy hoạch không gian đô thị tổng thể xác định phương hướng 2030 đến 2050, phối hợp với những quan điểm qua trao đổi chuyên môn với các nhà quy hoạch đô thị, một vài lỗ hổng căn bản được tìm thấy, chúng liên quan đến lý thuyết quy hoạch phong cảnh ở ba tỉ lệ không giống nhau gồm vùng đô thị, trung tâm đô thị, và khu cư dân. Do sự kết nối giữa những lớp trong đô thị mới và cũ khá rắc rối phức tạp, phương pháp đề ra là buộc phải tiếp xúc và xanh hóa đô thị dần theo từng giai đoạn trên nguyên tắc tổng thể, và thích hợp với hoàn cảnh đô thị và quy hoạch xác định phương hướng của Đà Nẵng.
Ý tưởng đề nghị nhằm xây dựng một hệ thống không gian xanh hướng tới làm thoả mãn các nhu cầu khẩn cấp của đô thị, đẩy mạnh tỉ lệ bao trùm cây cối đô thị 1 cách khoa học và hợp lí. Ứng dụng bộ luật học phong cảnh vào việc phân tích hệ thống không gian, đã miêu tả những đặc tính của phong cảnh như sự phân bổ không gian, S diện tích, tỷ lệ, và hình dáng bên ngoài. Áp dụng các quy tắc sinh thái học phong cảnh, bài viết đã đề nghị những phương pháp cải thiện hệ thống không gian xanh như sau: (1) Ở cấp độ vùng, tạo lập những hành lang bảo tồn các vùng ngoại ô khỏi sự xâm lấn của đô thị hoá; (2) Ở cấp độ trung tâm đô thị, xác lập các hệ thống không gian xanh cho tất cả đô thị nhằm giải quyết những vấn đề hệ sinh thái tránh khỏi những ảnh hưởng của chuyển đổi khí hậu. Trong sự đối sánh giữa cấu trúc đô thị và không gian xanh được xây dựng, không gian xanh này thỏa mãn nhu cầu nghỉ ngơi giải trí trong giới hạn cho phép của hệ sinh thái đô thị và cung ứng một hệ sinh thái sống có thể cho những loài sinh vật trong hệ sinh thái bán tự nhiên; (3) Ở khía cạnh phong cảnh khu cư dân, quan tâm đến những không gian xanh cụ thể và chi tiết hơn (giống như những ma trận xanh ảnh hưởng sâu vào cấu trúc đô thị nhằm tương tác đến từng thực thể nội đô), mang đến cảm nhận chạm vào thiên nhiên qua cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của con người. Những yếu tố tạo lên hệ thống không gian xanh được phân chia ra những tầng bậc đa chiều nhằm cực lớn hóa ma trận xanh mang đến ích lợi cho hệ sinh thái sống. Sự chọn lựa về cấu trúc, tầng bậc gồm có hành lang xanh che chắn và bảo vệ đô thị khỏi ảnh hưởng của hệ sinh thái biển. Đồng thời, đây cũng chính là vùng gắn kết cho bốn lối xanh kết nối từ nội thị ra phía bên ngoài vùng biển phía Tây, xuyên thẳng qua hai hành lang sông ngòi chạy dọc đôi bờ sông Hàn. Hai lối xanh che chắn cho tuyến lưu thông cơ giới từ cảng Tiên Sa ra phía bên ngoài đô thị và tuyến phố sắt đất nước đi xuyên qua đô thị phía Tây. Một tuyến phố xanh xung quanh cảng hàng không nhằm giải quyết những vấn đề độc hại tiếng ồn đô thị và mỹ quan. Toàn bộ kết nối với nhau và cùng với những công viên đã tồn tại cũng như đang quy hoạch nhằm tạo thành một hệ thống nghiêm ngặt để mở ra một không gian đô thị chất lượng rất tốt.
*Đỗ Duy Thịnh: Khoa Kiến Trúc – Trường Đại học Xây dựng Miền Tây
(Bài đăng trên TCKT số 02-2019)
––––––––––––––––––––––––––––––––––
Tài liệu tham khảo
- Aguilera, F., L. M. Valenzuela and A. Botequilha-Leitão (2011). “Landscape metrics in the analysis of urban land use patterns: A case study in a Spanish metropolitan area.” Landscape and Urban Planning 99(3-4): 226-238.
- Dewan, A. M. and Y. Yamaguchi (2009). “Land use and land cover change in Greater Dhaka, Bangladesh: Using remote sensing to promote sustainable urbanization.” Applied Geography 29(3): 390-401.
- Do, D., J. Huang, Y. Cheng and T. Truong (2018). “Da Nang Green Space System Planning: An Ecology Landscape Approach.” Sustainability 10(10): 3506.
- Dramstad, W., J. D. Olson and R. T. Forman (1996). Landscape ecology principles in landscape architecture and land-use planning, Island press.
- Forman, R. T. and M. Godron (1986). “Landscape ecology. 619 pp.” Jhon Wiley & Sons, New York.
- Ghosh, A., M. Munshi, G. Areendran and P. Joshi (2012). “Pattern space analysis of landscape metrics for detecting changes in forests of Himalayan foothills.” Asian Journal of Geoinformatics 12(1).
- Goldstein, E. L., M. Gross and R. M. DeGraaf (1983). “Wildlife and greenspace planning in medium-scale residential developments.” Urban Ecology 7(3): 201-214.
- Grimm, N., S. Faeth, N. Golubiewski, C. Redman, J. Wu, X. Bai and J. Briggs (2008). “Global change and the ecology of cities. Science 319: 756760Groffman PM, Boulware NJ, Zipperer toa let, Pouyat RV, Band LE,
- Colosimo MF (2002) Soil nitrogen cycle processes in urban riparian zones.” Environ Sci Technol 36: 45474552Groffman.
- Gyenizse, P., Z. Bognár, S. Czigány and T. Elekes (2014). “Landscape shape index, as a potential indicator of urban development in Hungary.” Acta Geographica Debrecina. Landscape & Environment Series 8(2): 78.
- He, D. C. and D. Morin (2012). “Relationship Between the Landscape Structure of Urban Green Spaces and Residents’ Satisfaction: The Case of a Central District in Hanoi (Vietnam).” Asian Journal of Geoinformatics 12(1).
- Huang, C., J. Yang, H. Lu, H. Huang and L. Yu (2017). “Green Spaces as an Indicator of Urban Health:
- Evaluating Its Changes in 28 Mega-Cities.” Remote Sensing 9(12): 1266.
- Klausnitzer, B. (1993). Ökologie der Großstadtfauna, G. Fischer.
- Kong, F.-h., N. Nobukazu, H.-w. Yin and K. Akira (2005). “Spatial gradient analysis of urban green spaces combined with landscape metrics in Jinan city of China.” Chinese Geographical Science 15(3): 254-261.
- Pham, N. D. a. P., Hai Ha (2002). Notes on ecological urban development in Vietnam. Vietnam Architecture Magazine. Ha Noi.
- Tan, K. W. (2006). “A greenway network for singapore.” Landscape and Urban Planning 76(1-4): 45-66.
- Tlapáková, L., D. Stejskalová, P. Karásek and J. Podhrázská (2013). “Landscape metrics as a tool for evaluation landscape structure–Case Study Hustopeče.” European countryside 5(1): 52-70.
- Turner, B. (1994). “Local faces, global flows: the role of land use and land cover in global environmental change.” Land Degradation & Development 5(2): 71-78.
- Wolch, J. R., J. Byrne and J. P. Newell (2014). “Urban green space, public health, and environmental justice:
- The challenge of making cities ‘just green enough’.” Landscape and urban planning 125: 234-244.
- Wu, J. J. (2008). “Making the case for landscape ecology an effective approach to urban sustainability.”
- Landscape journal 27(1): 41-50.
Thêm nhiều thông tin hấp dẫn với BdsNhaDat.com.vn ⭐
T.H