Theo số liệu thống kê của Cục điều tra dân số của Mỹ, vào năm 1990 dân số thế giới là 5,3 tỷ người. Đến năm 2015, con số này đã lên đến gần 7,3 tỷ người. Với vận tốc tăng trưởng dân số nhanh như thế thì phán đoán đến năm 2040 dân số thế giới sẽ ước khoảng 9 tỉ người. Dân số thế giới càng ngày càng tăng mạnh sẽ là 1 ưu thế về nguồn lực lao động sáng tạo của loài người trong tương lai nhưng cũng chính là một thử thách lớn về áp lực dân số lên các vùng đô thị, các thành phố lớn của rất nhiều đất nước trên thế giới.
Năm 1950, chỉ với New York là thành phố đặc biệt nhất trên thế giới có dân số vượt ngưỡng 10 triệu con người. Đến năm 1960 chỉ xuất hiện thêm Tokyo đạt kỷ lục này. Nhưng sau hai mươi năm sau (năm 1980) đã có 05 thành phố khác trở thành siêu đô thị, gồm có: Mexico (Mexico), Sao Paolo (Brazil), Thượng Hải (Trung Quốc), Osaka (Nhật Bản) và Buenos Aires (Argentina). Sau hơn hai mươi năm tiếp nối thì đã có thêm 18 thành phố khác gia nhập vào list danh sách các siêu đô thị (xét về mật dân số) trên thế giới. Điều đáng chú ý ở đây là trong những số 24 thành phố lớn đó chỉ với 08 thành phố là những siêu đô thị tại các nước tiên tiến (New York, Los Angeles, Tokyo, Osaka, Seoul, Paris, London và Moskva). Còn lại 2/3 số lượng siêu đô thị lại thuộc sở hữu các nước đang phát triển, trong đó 09 siêu đô thị ở Châu Á, 08 ở Nam Mỹ, 02 ở khu vực đông Địa Trung Hải và 01 ở Châu Phi. Những con số trên đây cho thấy rằng nếu mà năm 1960 các siêu đô thị chỉ tồn tại ở nửa phía Bắc của thế giới thì kể từ thời điểm năm 1980, các siêu đô thị lại phát triển mạnh ở nửa phía Nam trái đất. Khu vực Nam Á và Đông Nam Á hiện đang chiếm lợi thế trong list danh sách này.
Khái niệm về vùng đô thị lớn và sự phân hạng của chúng trên map bản đồ thế giới
Khái niệm vùng đô thị lớn
Khi kể đến đô thị, người ta thường đề cập đến khu vực trung tâm của vùng người dân đô thị, nơi bắt đầu của sự tạo thành vùng đô thị đó. Hay nói theo cách khác đây chính là đô thị trung tâm. Cùng với quá trình phát triển của đô thị trung tâm, các khu vực gần kề chung quanh cũng càng ngày càng được rộng mở và kết nối tốt hơn kinh qua việc làm, nhu cầu đi lại hằng ngày, nơi ở, cung ứng các mặt hàng nông sản, thu gom xứ lý rác thải của cụm đô thị trung tâm… Bởi thế người ta sử dụng khái niệm Vùng đô thị lớn (hay nói một cách khác là không gian Vùng đô thị) nhằm thích hợp với quá trình phát triển năng động, rộng mở của đô thị.
Theo đó sẽ có 03 nhân tố tạo thành không gian Vùng đô thị lớn gồm có: Đô thị trung tâm, cụm đô thị bao phủ đô thị trung tâm và khu vực vành đai của vùng đô thị lớn. Thách thức cho việc quy hoạch không gian Vùng đô thị lớn chính là việc giải quyết các vấn đề của 03 nhân tố cấu thành.
Đối với khu vực đô thị trung tâm, thử thách chủ yếu tập trung vào việc cải tạo không gian đô thị đã tạo ra do quá trình lịch sử phát triển, gồm có cả những công trình hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội.
Đối với nhân tố thứ hai, những cụm đô thị bao phủ đô thị trung tâm thường có xu thế rộng mở thiếu kiểm soát và thường được so sánh với hình ảnh vết dầu loang do thiếu các hoạt động quy hoạch cụm đô thị và kiểm soát quá trình rộng mở của chúng.
Đối với nhân tố thứ ba, khu vực vành đai của vùng đô thị, nơi chủ yếu tập trung dân số trẻ với vận tốc tăng thêm dân số mau chóng và mật độ thất nghiệp cao (trong lúc địa phận này vốn đã thiếu thốn các công trình hạ tầng và việc làm so với khu vực đô thị trung tâm và cụm đô thị bao phủ đô thị trung tâm); do đó, khu vực vành đai rớt vào thực trạng càng ngày càng rộng mở không được kiểm soát, kéo theo các hiện tượng phân hóa càng ngày càng tăng về mặt tổ chức không gian, phá hủy các không gian nông nghiệp và tự nhiên.
Dựa trên quy mô của 3 nhân tố cấu thành vùng đô thị, có thể chia vùng đô thị lớn ra thành nhiều cấp độ không giống nhau [2]. Cụ thể như:
- Cấp độ 1 – phạm vi của vùng đô thị rộng mở sang nhiều đơn vị lãnh thổ thuộc nhiều bang, vùng, tỉnh, địa hạt khác (Tất cả vùng đô thị lớn);
- Cấp độ 2 – gồm vùng lõi đô thị trung tâm và 1 phần khu vực vành đai (Vùng đô thị rộng mở);
- Cấp độ 3 – chỉ gồm vùng lõi đô thị trung tâm và vành đai ven đô liên kề (Vùng đô thị hạn hẹp);
- Cấp độ 4 – gồm đô thị trung tâm và 1 phần hoặc tất cả vùng lõi đô thị liền kề.
Khái niệm Vùng đô thị lớn đã làm thay đổi việc quy hoạch không gian dựa trên các công trình cơ sở hạ tầng và việc phân vùng tính năng, sang khái niệm phát triển Vùng đô thị lớn rắc rối phức tạp hơn rất là nhiều, trong đó dần lồng ghép các vấn đề kinh tế, các góc độ về hệ sinh thái hoặc hướng đến kiếm tìm một sự liên kết nghiêm ngặt hơn về mặt xã hội.
Sự phân hạng các vùng đô thị lớn trên map bản đồ thế giới
Cách tiếp xúc trước tiên trong việc phân hạng các vùng đô thị lớn là dân số của vùng đô thị. Dân số càng lớn càng thể hiện quy mô của vùng đô thị. Tuy vậy, sự xếp hạng tựa vào dân số chỉ thể hiện được một góc độ của quá trình phân hạng bởi chính bản thân các số liệu thống kê dân số đó còn thiếu tính chuẩn xác, đặc biệt là tại các nước đang phát triển, cũng như chưa tính tới các tính năng khác vốn có của những đô thị lớn. Số liệu thống kê dân số chưa chuẩn xác bởi 2 nguyên nhân chính: Thứ đặc biệt là do thời điểm thống kê tại các vùng đô thị luôn không giống nhau, thỉnh thoảng chênh đến 6, 7 năm; Thứ 2 là phạm vi thống kê của vùng đô thị nhiều trường hợp chưa thông nhất. Điển hình như số liệu của đô thị trung tâm và số liệu của vùng đô thị còn lẫn lộn trong khi thống kê. Hai lý do trên làm giảm tin cậy của số liệu thống kê và độ chứng thực của một vài kết quả xếp hạng dựa theo dân số.
Bởi các lý do trên, một vài nhà nghiên cứu đã đề nghị cách tiếp xúc dựa trên yếu tố kinh tế. Thay mặt đại diện cho cách tiếp xúc này là 3 nhà nghiên cứu: J.V.Beaverstock, R.G.Smith và P.J.Taylor. Vào năm 1999, họ đã đề ra cách thức tiếp xúc hoàn toàn dựa trên dịch vụ cung ứng cho những doanh nghiệp thường chỉ với ở những thành phố lớn hoặc rất to lớn. Đấy là yếu tố thể hiện qua mức độ hiện diện của những công ty đa đất nước trong những lĩnh vực tài chính, ngân hàng, pháp lý và thông tin. Theo phương thức này, kết quả xếp hạng có sự trái ngược so với kết quả xếp hạng theo thống kê dân số. Trong đó, có những kết quả đáng nghi ngại như Johannesburg (Nam Phi) và Caracas (Venezuela) có ảnh hưởng tầm cỡ thế giới cao hơn cả Thượng Hải (Trung Quốc), Barcelona (Tây Ban Nha) hay Miami (Mỹ).
Có vẻ như 2 cách tiếp xúc về phân loại trên chưa phản ánh đúng với thực tiễn phát triển của những vùng đô thị lớn. Bởi thế, nhóm nghiên cứu do nhà quy hoạch Gilles Antier đảm nhận đã đề ra ý kiến cần phải có thêm những tiêu chuẩn khác về kinh tế và tài chính để nhận định một vùng đô thị lớn và buộc phải bổ sung các tiêu chuẩn về cơ sở hạ tầng và tạo được sức cuốn hút. Nhóm nghiên cứu đã lồng ghép tất cả những tiêu chuẩn nói trên vào 1 bảng chỉ số gồm 8 chỉ số về vùng đô thị lớn để thí điểm phân loại các vùng đô thị lớn trên thế giới. 8 chỉ số đó gồm có: (1) Quy mô dân số; (2) Lưu lượng vận tải hàng không; (3) Tổng chiều dài mạng lưới tàu điện ngầm; (4) Vai trò của thị trường chứng khoán; (5) Số lượng trung tâm sáng chế khoa học và công nghệ; (6) Tổ chức các sự kiến lớn; (7) Tầm quan trọng về mặt di tích và văn hóa; (8) Tổ chức các hội nghị quốc tế.
Dựa trên bảng tiêu chuẩn phân loại trên, nhóm nghiên cứu đã chia các vùng đô thị lớn thành 3 nhóm chính gồm: Nhóm số một, nhóm cạnh tranh và nhóm cạnh tranh cấp khu vực [2]. Trong đó, các vùng đô thị lớn nằm phía trong 02 nhóm sau cuối sẽ được phân thành hạng 01 và hạng 02, nhằm phân loại chuẩn xác hơn các vùng đô thị trong cùng 1 nhóm. Theo đó sẽ có: 4 vùng đô thị lớn thuộc nhóm số một; 09 vùng đô thị lớn thuộc hạng 1 và 06 vùng thuộc hạng 2 của tập thể nhóm cạnh tranh; 12 vùng hạng 01 và 12 vùng hạng 02 thuộc nhóm cạnh tranh cấp khu vực (xem Hình 1).
Với phương thức phân loại này, các vùng đô thị lớn trên thế giới sẽ được nhận diện và tạo thành nên 03 khu vực trọng điểm chính gồm có: 1- Khu vực Bắc Mỹ (chiếm 28% tổng cộng lượng vùng đô thị lớn), 2- Khu vực Châu Âu – Địa Trung Hải (chiếm 28%), 3- Khu vực Châu Á (chiếm 32%).
Nếu đối chiếu map bản đồ thể hiện sự phân bố của những vùng đô thị lớn trên thế giới với map bản đồ thể hiện các khu vực tiêu thụ điện trên toàn thế giới (xem Hình 2), có thể nhận ra rõ được sự trùng hợp về mặt địa điểm. Cụ thể là các khu vực có điểm sáng nhất về đêm đều toạ lạc 3 khu vực trọng điểm chính của những vùng đô thị lớn trên thế giới.
Các thế hệ sơ đồ quy hoạch
Theo các nhà nghiên cứu quy hoạch, kể từ đầu thế kỷ 20 tới nay, sơ đồ quy hoạch có thể chia ra 3 thế hệ căn bản.
- Thế hệ sơ đồ quy hoạch đầu tiên nằm phía trong giai đoạn từ 1900-1940, thời kỳ mang đậm dấu ấn của quá trình lấn chiếm thuộc địa và vận tốc tăng trưởng đô thị, tăng thêm dân số còn khiêm tốn. Những sơ đồ này gần như tất cả đều do các KTS và các nhà quy hoạch lập ra dựa trên những hiểu biết và kinh nghiệm đối với những lãnh thổ thuộc địa (Sơ đồ quy hoạch của Hebrard cho Sài Gòn năm 1924, cho TP Hà Nội năm 1943 hay cho Phnom Penh năm 1937).
Thực chất, thế hệ sơ đồ quy hoạch trước tiên này trước tiên nhằm tạo thành một “cấu trúc đô thị”, còn các mục đích triển khai vẫn chỉ đơn giản là thứ yếu. Những sơ đồ này thể hiện một ý chí tổ chức mạng lưới đường giao thông về mặt tính năng và đặc biệt là các mạng lưới giao thông, cấp, thoát nước và cấp điện theo những quy chuẩn về vệ sinh thời kỳ đó. - Giai đoạn tiếp nối từ thời điểm năm 1950 đến năm 1970, tương ứng với sơ đồ quy hoạch thuộc thế hệ thứ hai. Các sơ đồ quy hoạch thời kỳ này mang đậm dấu ấn của sự tăng thêm dân số mạnh mẽ, sự tăng trưởng kinh tế của những nước tại Bắc bán cầu và quá trình phi thực dân hóa tại các nước Nam bán cầu. Đặc thù của những các sơ đồ quy hoạch thế hệ thứ hai này là cách tiếp xúc theo chỉ đạo của Nhà nước, thể hiện chủ trương quy hoạch nhằm kiểm soát các ảnh hưởng của tăng trưởng kinh tế và tăng thêm dân số, đồng thời nỗ lực tổ chức quá trình phát triển của cụm đô thị và điều phối các nguồn ngân sách lớn đầu tư cho hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội.
Không chỉ là cơ sở phân tích và xác định phương hướng có cơ sở nghiêm ngặt hơn so với thế hệ trước, những đồ án thời kỳ này còn thể hiện một quan niệm cứng rắn về chính sách đô thị (thiết kế, phân khu, trang bị hạ tầng). Tuy vậy, các dịch vụ đô thị ít được quan tâm hơn trong lúc dân số đô thị lại đang bùng nổ mạnh tại các nước đang phát triển, gây áp lực lên hệ thống dịch vụ đô thị. Những đồ án này còn có xu thế thao túng quá trình lập quy hoạch theo như hình thức “quy hoạch chung sử dụng đất” trong kỳ hạn từ 10 đến 15 năm. Điều quan trọng hơn, những tài liệu quy hoạch này được ngầm coi như cơ sở tham chiếu cho 1 mạng lưới đô thị, có tính chất bắt buộc đối với tất cả đối tượng, mọi dự án đầu tư của nhà nước và trách nhiệm nâng cao điều kiện sống của chính quyền, trong điều kiện vượt quá khả năng của các đô thị đang phát triển, nhất là về khả năng tài chính. - Giai đoạn 3 từ sau năm 1970, cơn khủng hoảng kinh tế toàn thế giới ảnh hưởng đến khả năng tài chính của những đô thị, đồng thời tác động trực tiếp nối việc thực thi các đồ án quy hoạch Vùng đô thị. Kể từ đấy, các tài liệu quy hoạch đã có những chuyển biến thâm thúy, kể cả ở những nước tiên tiến và đang phát triển. Xu thế phổ biến là lập các đồ án xác định phương hướng có thể tùy chỉnh được và chuyển biến, thay thế cho các công cụ quản lý đơn giản vẫn vận dụng cho những chương trình chỉ tập trung vào quy hoạch. Người ta nỗ lực hỗ trợ cho các tiềm lực của địa phương đã có thể xây dựng thành một dự án hơn là sự phân bố các nguồn đầu tư chỉ căn cứ theo các định mức định lượng dựa trên nhu cầu.
Xác định hướng sách lược trong đồ án quy hoạch của 1 số vùng đô thị lớn
Các tài liệu lịch sử quy hoạch có thể cho thấy quá trình phát triển của vùng đô thị kinh qua 3 thời kỳ căn bản. Thời kỳ đầu là thời kỳ phát triển tập trung khai thác, sử dụng tối đa quỹ đất xây dựng, hạ tầng kỹ thuật, rút ngắn bán kích phục vụ từ các khu trung tâm đến các khu ở, giúp đô thị có bộ mặt đông đúc và nhộn nhịp. Đó chính là sự tạo thành các đô thị trung tâm, bắt nguồn của việc tạo thành vùng đô thị lớn.
Khi tỷ lệ đô thị trung tâm đã quá cao, các khu vực công nghiệp được di dời ra khu vực ngoại ô để tận dụng quỹ đất rẻ và tránh độc hại không khí khu vực trung tâm, các khu người dân cũng theo đó cũng được sắp đặt ngoài rìa đô thị nhờ có hệ thống giao thông kết nối thuận tiện. Quá trình này thường được coi là quá trình phát triển phân tán của đô thị. Đó chính là sự bắt đầu của quá trình tạo thành các vùng đô thị lớn. Trong tiến trình phát triển phân tán này, các đồ án quy hoạch vùng đô thị lớn thường có 2 xác định phương hướng chính. Cụ thể là:
- Xác định hướng đầu tiên: Nỗ lực xác định phương hướng sự tiến lên của khu vực vành đai tập trung vào 1 hoặc nhiều đô thị mới. Sự thành công trong việc thực hiện xác định phương hướng này tùy thuộc vào sách lược tổng thể của chính quyền vùng và cấu trúc không gian vùng hợp lí, được kết nối bởi một mạng lưới giao thông hiệu quả. Cụ thể như trường hợp tại đồ án tổng quy hoạch vùng Ile-de-France năm 1976, 05 đô thị mới được sắp đặt hợp lí tại các cửa ngõ dẫn vào cụm đô thị trung tâm. Bởi thế đến năm 1982, 05 đô thị này đã hấp dẫn được hơn 50% số dân và các hoạt động kinh tế – xã hội tăng lên trong vùng. Thành công tượng tự cũng xảy ra đối với 5 đô thị mới trước tiên của vùng Seoul khi 5 đô thị này được kết nối với đô thị trung tâm bằng hệ thống giao thông công cộng thuận lợi. Các đô thị mới của Hồng Kông thì được phát triển theo 2 nhóm chính: Nhóm đầu tiên gồm 1 số đô thị bảo đảm tính năng giảm tải sự tập trung vào đô thị trung tâm, trong lúc nhóm thứ hai gồm 1 số đô thị khác lại xác lập được một địa thế trọng điểm quy mô cấp vùng.
- Xác định hướng thứ hai: Trong tiến trình rộng mở các khu vực vành đai dựa trên một hệ thống đô thị có sự phân cấp thành các cực phát triển cấp vùng, hay thường gọi là mô hình mạng đa cực. Xác định hướng này yêu sách phải có 1 sơ đồ tổng quy hoạch và một sách lược phát triển rành mạch. Ý kiến quy hoạch theo cấu trúc đa cực khá phổ biến tại nhiều vùng đô thị lớn. Tại Châu Âu, năm 1997 vùng Berlin-Brandelbourg đã đề nghị cực tăng trưởng đô thị hướng đến 8 trọng điểm đô thị thuộc vành đai nhỏ và 11 trọng điểm khác tại khu vực vành đai lớn. Vùng đô thị Lyon được cấu trúc theo 2 thành phố lớn là Lyon và Saint-Etienni. Không chỉ có vậy, mạng lưới vùng đô thị Lyon còn có rất nhiều thành phố hơn 50.000 dân và rất là nhiều thành phố nhỏ và trung bình khác. Tại Châu Úc, Melbourne vào năm 1980 đã dự định quy hoạch 15 khu trung tâm giao thương trong khu vực vành đai của vùng. Tại Châu Phi, vùng Cairo đã tạo lập hơn 10 khu định cư mới tại phía Đông cụm đô thị trung tâm. Còn tại Châu Á, năm 1996. Thái Lan đã duy trì ý tưởng quy hoạch 5 trung tâm đô thị cấp vùng. Sơ đồ sách lược của Singapore năm 2000 cũng dự định 4 trung tâm giống như trường hợp của Tokyo. Tuy vậy xác định phương hướng này được các nước đang phát triển chọn lựa thuần tuý để nỗ lực xây dựng cấu trúc và củng cố mạng lưới các đô thị loại trung bình và có vai trò thứ cấp bao phủ nhằm kiềm chế sự phình to của cụm đô thị trung tâm. Điển hình cho mục đích này là đồ án quy hoạch phát triển vùng Santiago (Chile) năm 2001 chủ trương giảm đi bớt 50% mức tăng trưởng đô thị của thủ đô ra vùng vành đai với cùng một mạng lưới gần 10 điểm đô thị sẵn có cách cụm đô thị trung tâm 20 đến 40 kilomet.
Sau thời điểm kinh qua quá trình phát triển phân tán, các vùng đô thị chuyển qua giai đoạn tái tập trung vào khu vực đô thị trung tâm. Quá trình phát triển tái tập trung thường gặp ở những nước đã phát triển và đóng vai trò chủ chốt trong chuỗi giá trị toàn thế giới. Các khâu sản xuất có giá trị thấp trong chuỗi này như cung cấp linh phụ kiện, phân phối và đặc biệt là khâu gia công đều đã được chuyển qua cho những nước kém phát triển hơn. Các nước này gần như tất cả đã hoàn tất sách lược di chuyển các ngành công nghiệp nặng – cơ khí và công nghiệp điện tử và các cơ sở sản xuất yêu sách nhiều nhân công lao động sang các nước nghèo, dẫn đến sự tái sắp đặt và sắp đặt về cấu trúc hình thái và tính năng đô thị. Bởi thế, tại các quy hoạch vùng đô thị lớn giai đoạn này tạo thành xác định phương hướng thứ ba được thể hiện bằng sự việc quay trở lại của chính cụm đô thị trung tâm. Xác định hướng này bắt đầu xuất hiện vào những năm 80 kinh qua phong trào “quay trở lại thành phố” (back to the city) tại Mỹ. Đồ án quy hoạch Los Angeles năm 1980 đã có chủ trương tăng tỷ lệ cho khu vực đô thị trung tâm và kiểm soát quá trình tăng trưởng đô thị. Tiếp nối những năm 90 chính quyền vùng London và vùng Ile-de-France có các sách lược ưu tiên quy hoạch các địa phận nằm phía trong cụm đô thị trung tâm như quy hoạch tuyến hành lang Lea Valley thuộc bờ đông sông Thames.
Các vùng đô thị lớn tại Việt Nam
Theo xác định phương hướng tổng quy hoạch phát triển hệ thống đô thị Việt Nam đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2050 (được Thủ tướng phê duyệt tại Quyết định số 445/QĐ-TTg năm 2009), trong giai đoạn 2009-2015, các vùng đô thị lớn sẽ được ưu tiên phát triển. Hiện tại, Vùng Thủ đô TP Hà Nội và vùng TP.HCM là 2 vùng đô thị lớn nhất trên cả nước, đang đóng vai trò quan trọng về cả kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội.
Việc tùy chỉnh Quy hoạch Xây dựng Vùng Thủ đô TP Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã được Thủ tướng chính phủ phê duyệt tại Quyết định 768/QĐ-TTg ngày 06/05/2016. Theo đó, quy mô Vùng thủ đô TP Hà Nội sẽ bao trùm 10 tỉnh thành với tổng thể diện tích là 24.317,7 km² và dân số là 17,6 triệu con người (theo thống kê năm 2012).
Theo như đồ án quy hoạch xây dựng, vùng thủ đô TP Hà Nội sẽ phát triển theo mô hình mạng đa cực (xác định phương hướng 2) trong đó Thủ đô TP Hà Nội, tỉnh Vĩnh Phúc và tỉnh Bắc Ninh là 3 cực phát triển quan trọng của mạng lưới. Không chỉ có vậy mạng lưới vùng đô thị còn có 7 thành phố lớn và hàng chục đô thị chuyên ngành tạo ra mạng lưới đa cực trong vùng Thủ đô.
Vùng TP.HCM đang trong giai đoạn tùy chỉnh quy hoạch theo quyết định phê duyệt nhiệm vụ số 1065/QĐ-TTg năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ. Tuy vậy theo nhiệm vụ mới, quy mô Vùng TP.HCM không có gì thay đổi so với quy hoạch trước đây với S diện tích là 30.404 km² và dân số là 18,7 triệu dân (năm 2014).
Hiện tại, Vùng TP.HCM có khoảng trên 80 đô thị thuộc các loại không giống nhau theo hệ thống phân loại đô thị của Việt Nam. Quy hoạch xây dựng Vùng TP.HCM đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2050 đã lời khuyên việc xây dựng mạng lưới Vùng có sự tương tác với nhau, nhất là đối với đô thị trung tâm trong khoảng bán kính 30km. Tạo thành các vùng đô thị đối trọng với các cực phát triển là các đô thị hạt nhân, kết nối với vùng đô thị trung tâm theo các trục hành lang kinh tế đô thị. Về căn bản, Vùng TP.HCM cũng xác định phương hướng phát triển mạng lưới đô thị của mình theo mô hình đa cực. Với địa thế đặc biệt, TP.HCM vẫn có tầm ảnh hưởng nhất định đối với các đô thị khác trong vùng, trong lúc một vài đô thị giữ quan hệ nghiêm ngặt, số khác lại giữ mức độ độc lập nhất định.
Theo thống kê, Vùng đô thị New York là vùng đô thị lớn nhất thế giới với S diện tích 33.165 km². Các vùng đô thị lớn còn lại chỉ với quy mô S diện tích từ khoảng 10.000 km² đến 17.000 km². Như thế nếu so sánh về mặt S diện tích, 2 vùng đô thị lớn nhất của nước mình đều sở hữu S diện tích to hơn nhiều so với các vùng đô thị lớn tại các nước. Cụ thể, S diện tích Vùng Thủ đô TP Hà Nội to hơn gấp 1,5 lần S diện tích vùng Washington, gấp hai lần vùng Ile-de-France, gấp hơn 4 lần vùng Tokyo. Riêng đối với Vùng TPHCM thì S diện tích vùng này gần tương tự Vùng đô thị lớn nhất thế giới – vùng New-york.
Với quy mô S diện tích phát triển vùng đô thị lớn như thế thì kết quả thực hiện mạng lưới đa cực trên địa phận TP Hà Nội và TP.HCM còn nhiều thử thách, cần phải có sự cố gắng của Chính phủ và sự phối kết hợp của chính quyền các tỉnh trong vùng.
Thông qua nghiên cứu việc thực hiện mô hình mạng đa cực tại nhiều vùng đô thị lớn trên thế giới có thể rút ra được 04 nhân tố căn bản có liên quan nghiêm ngặt tới sự thành công của mô hình này. Cụ thể là:
- Mô hình mạng đa cực cần dựa trên một sơ đồ tổng quy hoạch rõ nét và vững bền. Vùng đô thị Calcutta (Ấn Độ) là 1 chẳng hạn điển hình về sự thất bại khi Chính quyền cũng giống như các nhà quy hoạch không chắc chắn trong việc định rõ mạng lưới đô thị đa cực. Đồ án quy hoạch vùng đô thị này năm 1966 định rõ 2 đô thị cách nhau 40 kilomet (Howrah và Kalvani) là 2 trọng điểm phát triển của vùng. 10 năm sau chỉ giữ lại 1 cực tăng trưởng là đô thị Howrah. 10 năm tiếp nối lại định rõ đô thị Calcutta mới là cực quan trọng nhất, tiếp đến mới đến Howrah. Điều đó vẫn được khẳng định trong đồ án quy hoạch vùng đến năm 2015.
- Khoảng cách và địa điểm giữa những đô thị trong vùng. Điều đó có liên quan trực tiếp nối quy mô, S diện tích vùng đô thị lớn. Điển hình là trong đồ án quy hoạch vùng Mumbai năm 1973 với ý tưởng phát triển các đô thị mới bên bờ vịnh phía Đông. 30 năm sau, mặc dù là hệ thống đường giao thông kết nối thuận tiện, nhưng đô thị Navi Mumbai chỉ đáp ứng được 1 phần rất nhỏ trong mục đích tạo lập sự cân bằng của cả vùng đô thị Mumbai. Trường hợp không đạt được mục đích đưa ra như thế thường là những đô thị mới nằm quá xa đô thị trung tâm và không có dự án nào khác, hoặc rất rất hiếm dự án được tạo thành giữa chúng. Các đô thị mới bị bỏ quên, cần phải tự thay đổi tính năng hoặc sẽ trở thành các đô thị độc lập thuần tuý và sẽ không đáp ứng được tính năng chính trong việc hấp dẫn phần đông mức độ phình to của đô thị trung tâm.
- Mức độ kết nối của hệ thống giao thông giữa đô thị phụ trợ với đô thị trung tâm. Điển hình là chẳng hạn tại Vùng Thủ đô Đài Bắc (Đài Loan), dù rằng đã khắc phục được khoảng cách đối với đô thị trung tâm, đô thị mới Lâm Khẩu nằm gần Thủ đô Đài Bắc vẫn gặp phải sự thất bại do hệ thống giao thông kết nối cực thấp kém.
- Khả năng cung cấp nguồn nước và điện cho quy mô phát triển các đô thị trong vùng đô thị theo quy hoạch trong tương lai. Đây cũng chính là một nhân tố rất quan trọng, cần tính tới trong việc quy hoạch cũng như tùy chỉnh quy hoạch xây dựng các vùng đô thị lớn của Việt Nam với tầm nhìn 20 đến 30 năm, đặc biệt trong hoàn cảnh chuyển đổi khí hậu đang diễn ra ngày 1 rắc rối phức tạp và khó tiên lượng. Việc dự trù được khả năng và mức độ có thể đáp ứng được nhu cầu về năng lượng và nguồn nước ngọt cho sản xuất cũng như cho sinh hoạt tại các vùng đô thị lớn trong giai đoạn quy hoạch là 1 nhiệm vụ song hành, không thể tách rời đối với việc đề ra xác định phương hướng phát triển các đô thị trong vùng.
Tài liệu tham khảo:
1. Hà Duy Anh/ Vùng đất ven sông: Các nguyên tắc, phương hướng và giải pháp cải tạo phát triển/ Nhà xuất bản: Academic Publishing – Tp. Berlin, năm 2012/ 297 trang;
2. Gilles Antier/ Les stratégies des grandes métropoles;
3. L.V.Koskina / Nền tảng quy hoạch đô thị/ Nhà xuất bản: Bladox – tp. Matxcova, năm 2005/ 246 trang;
4. Quyết định số 768/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Tùy chỉnh quy hoạch xây dựng vùng thủ đô TP Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050;
5. Quyết định số 589/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch xây dựng vùng thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2050;
6. Quyết định số 1065/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Nhiệm vụ tùy chỉnh quy hoạch xây dựng vùng thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2050.
tiến sĩ. KTS QH Hà Duy Anh
Cục phát triển đô thị, Bộ Xây dựng
(Bài đăng trên TCKT số 4 – 2017)
Thêm nhiều thông tin hấp dẫn với BdsNhaDat.com.vn ✔
T.H