Một số “Nơi chốn” đô thị Việt Nam ❗


Nếu tiếp xúc đô thị dưới góc nhìn khoa học và lý tính, chúng ta sẽ tạo dựng các bản quy hoạch từ tổng thể đến chi tiết với rất nhiều tính toán rắc rối phức tạp về dùng đất, dân số, kinh tế, giao thông, hạ tầng kỹ thuật… Nếu tiếp xúc đô thị dưới góc nhìn con người và xúc cảm, chúng ta sẽ cùng nhau tạo dựng những vị trí thực tiễn chân thực của đô thị để phục vụ tất cả những nhu cầu vật chất và tinh thần của dân cư; chúng ta sẽ nghiên cứu và kiến thiết những nơi chốn đô thị cuốn hút để cư dân kinh doanh, mua sắm, quây quần, ăn uống, hẹn hò, sáng tác nghệ thuật, ngắm nhìn cảnh vật, dạo chơi… Và như thế, đô thị của chúng ta không những được hiểu giống như những bản quy hoạch và những bảng tính toán cứng nhắc mà đang cùng sống với chúng ta trong từng phút giây, sát cánh đồng hành với mỗi cư dân ở mọi góc nhỏ trong thành phố.

Tham khảo thêm: Nơi chốn và địa điểm

Chúng ta hãy cùng nhìn những đô thị ở Việt Nam, với những cư dân chẳng biết gì về lý thuyết quy hoạch nhưng lại đang tạo dựng những nơi chốn thú vị, những góc phố đầy xúc cảm.

Đầu ngõ – “nơi chốn” định rõ lãnh thổ của cộng đồng

Cổng làng Yên Thái (nay là ngõ 562 Thụy Khuê)

Ở đầu mỗi con ngõ nhỏ ngoằn ngoèo và chật chội thường là những quán cóc bán trà đá, kẹo lạc, thuốc lá. Không dừng lại ở đó có thể là những người đàn bà bán thức ăn sáng với 1 vài thúng xôi, bánh cuốn, bún đậu… Từ sáng đến tối, gần như khi nào cũng có người ngồi uống nước, hút thuốc ở quán cóc đầu ngõ, hóng hớt chuyện phiếm, chiêm ngưỡng dòng xe cộ xuôi ngược và hưởng thụ âm vị cuộc sống đô thị ồn ã, ngai ngái…

Đầu ngõ, mặc dầu gần như khi nào trông cũng khá luộm thuộm và nhếch nhác, thực ra chính là 1 nơi chốn với rất đầy đủ ý nghĩa của chính nó, một điểm đến không thể cưỡng lại đối với những cư dân sống trong ngõ. Thời nay, mặc dầu gần như khu cư dân nào thì cũng có nhà văn hóa nhưng lại không nhiều người đến đó hằng ngày. Còn đầu ngõ, chẳng được ai kiến tạo thì lại thành một nơi chốn cuốn hút. Cư dân thảo luận thời sự ở đầu ngõ, từ event sự kiện chính trị tới những vụ án hình sự; chuyện các gia đình ở đầu ngõ, từ chuyện thằng bé đỗ hai trường ĐH đến ông già mới bị ngã xe ở ngõ bên cạnh (thế mới có câu “trong nhà chưa tỏ, ngoài ngõ đã tường”). Nhiều cư dân cũng chọn lựa tiếp khách ở đầu ngõ thay cho ở nhà chật hẹp. Cư dân tận hưởng sự sôi động của cuộc sống đô thị ở đầu ngõ, nơi có thể nhìn dòng người xuôi ngược trên đường phố cũng như biết được thậm chí cuộc sống sinh hoạt thường nhật của mỗi cư dân trong ngõ…

Cổng làng Cốm vòng (nay là ngõ 28 Trần Thái Tông)

Đầu ngõ là nơi chốn giao thoa giữa lãnh thổ thuộc sở hữu mình và cộng đồng (vậy cho nên người ta mới nói là “trong ngõ nhà tôi có cái này cái kia”) với lãnh thổ lớn thuộc toàn thể dân cư đô thị. Nó là nơi thuộc sở hữu mỗi con người và cũng thuộc sở hữu đô thị. Nó cho những người dân cảm nhận vừa như ở ngôi nhà của mình, vừa như ra phía bên ngoài phố. Nó là nơi liên kết con người với cộng đồng và đô thị.

Gần như tất cả các đô thị của Việt Nam được đô thị hóa từ làng xã nông nghiệp nên trong nó vẫn chứa đựng những cổ truyền của xã hội nông thôn. Theo GS.tiến sĩ Trương Quang Thao, các phố phường Việt Nam được tạo thành từ phường làng nghề nông thôn nên chỉ gọi là “làng” – đô thị. Mỗi phường có cổng ra vào và hai tuyến phố bên đường, là nơi đồng thời ăn ở, sản xuất và buôn bán của cư dân. Cổng ra vào các phường nay không còn, nhưng ta vẫn bắt gặp một chút gì đấy kí ức của chính nó ở vị trí đầu ngõ thời nay. Mặt khác, cư dân đô thị hiện tại phần đa được di cư từ nông thôn ra, nên vẫn giữ ít nhiều style phong cách sinh hoạt ở làng quê như tính tập thể cộng đồng cao, sự chia sẻ và tò mò với nhà láng giềng… Và đầu ngõ chính là sự chuyển đổi của đầu làng hoặc cổng các phường hội, nơi định rõ cái phía bên trong và phía bên ngoài của lãnh thổ cộng đồng, nơi vẫn lưu giữ một chút tính chất tập thể và chia sẻ của cổ truyền làm nông nghiệp.

Quán cóc vỉa hè

Trên khắp các đô thị nước mình, không khó để chúng ta bắt gặp hình ảnh những quán nước hay hàng ăn trên vỉa hè. Điều ấy tưởng như đã thành bản sắc của đô thị Việt Nam, đã đi vào văn chương nghệ thuật, như nhạc sĩ Trịnh Công Sơn viết:

Mùa cốm xanh về, thơm bàn tay nhỏ
Cốm sữa vỉa hè, thơm bước chân qua…
hoặc Trương Quý Hải:
Quán cóc liêu xiêu một câu thơ
Hồ Tây, Hồ Tây tím mờ…
hoặc Nguyễn Đức Cường:
Đưa em xuyên qua phố phường bao sắc mầu, bao ánh đèn 
Ngồi ăn một quán ven đường…

Quán nước đầu ngõ 376 Thụy Khuê, cổng làng Hồ Khẩu

Trước tiên, chúng ta phải thấy rằng cái sự “ăn” rất quan trọng trong văn hóa của người Việt, thậm chí là số 1. Chả thế mà tục ngữ có vô vàn câu về ăn như: “ăn vóc, học hay”, “học ăn, học nói, học gói, học mở”, “ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau”, “ăn chắc, mặc bền”, “ăn chưa sạch, bạch chưa thông”, “ăn có sở, ở có những địa điểm”, “ăn có chủ, ngủ có công đường”, “ăn chơi khắp bốn phương trời, cho trần biết mặt, cho đời biết tên”… Không chỉ có vậy, sự việc trọng đại nào của đời người cũng được chúng ta gắn liền với ăn, nào là đám hỏi, ăn cưới, ăn cỗ, ăn giỗ, ăn mừng, ăn khao, ăn lễ, ăn tiệc, ăn học, cho tới ăn ở… và đương nhiên có cả ăn Tết.

Nguyên do có lẽ do Việt Nam là 1 nước nghèo, trước đó thường xảy ra các nạn đói, hoặc cũng có thể trong gen người Việt có khả năng cảm giác ẩm thực tốt. Chả thế mà trong “tứ khoái” của người Việt, ăn vẫn chính là số 1. Có vẻ như, ăn không những để duy trì sự sống mà còn là thứ để người Việt khám phá thiên hà, khám phá con người, khám phá đô thị. Món ăn phải cân bằng âm dương, phải vừa miệng, phải bổ dưỡng, phải thể hiện được địa thế của các người làm và thường thức nó.

Món ăn còn là nhân tố tạo ra bản sắc cho đô thị Việt Nam, giả dụ TP Hà Nội có phở, Hải Phòng có bánh đa cua, Huế có bún bò, Trảng Bàng có bánh canh, Hội An có cao lầu… Nếu mà chúng ta đến các đô thị trên mà hoàn toàn không ăn đặc sản của chính nó thì coi như cũng chỉ còn đó. Nghiên cứu về TP Hà Nội mà chưa đọc “Miếng ngon TP Hà Nội” của Vũ Bằng, chưa xếp quán ăn phở, chưa lang thang trà chanh chém gió, thì chưa thể hiểu về TP Hà Nội.

Với 1 nền văn hóa “trọng ăn” như thế, hình ảnh những quán cóc vỉa hè nhan nhản khắp phố phường Việt Nam không có gì lạ. Trái lại, đây chính là hình ảnh đặc thù và sexy nóng bỏng, làm cho nhiều du khách ngoại quốc đến Việt Nam muốn được trải qua và khám phá.

Nơi chốn … từ những chiếc tên

Xe đạp bán hoa trên các phố

Một điều thú vị về nơi chốn mà các nhà nghiên cứu trên thế giới ít để ý tới, đấy là tinh thần của nơi chốn có thể được tạo thành từ cái tên.

Trước tiên chúng ta phải thấy rằng: Không phải vị trí nào nội đô cũng được lấy tên, và cũng không phải cái tên nào thì cũng tạo lên cảm nhận quen thuộc, gắn bó với cư dân hoặc khơi gợi ý nghĩ hình dung sáng tạo của họ. Cách đặt tên đường phố và các vị trí trên thế giới nói chung là đặt theo tên danh nhân, tên event sự kiện, tên kiến trúc cảnh quan khu vực, tên làng nghề khu vực, và có cả kiểu đánh số. Đặt tên theo kiểu đánh số phổ biến đặc biệt là tên phố ở Mỹ, và cách này thiếu tính nhân văn nhất, không tạo cảm nhận gắn bó với môi trường không gian cảnh quan chung quanh hoặc không khơi gợi nhắc thức tìm hiểu lịch sử giống như các cách khác.

Cách đặt tên vị trí đô thị ở Việt Nam, ngoài ra kiểu trên như vậy giới, còn có những kiểu rất quen thuộc, gắn bó với từng con người thông thường. Chẳng hạn như Ngã ba Tài còng ở thị xã Cẩm Phả được lấy tên theo một bà lão tên Tài bị còng lưng trước đó hay ngồi ở đấy. Dù rằng địa đặc điểm này gần một nhà thờ tuyệt đẹp nhưng cư dân lại quen gọi nó theo tên một bà lão thông thường. Hoặc trên quốc lộ 51 đoạn xuyên qua thành phố Biên Hòa có 1 cây cầu được lấy tên là cầu Bà Bướm bởi trước đó có nhà bà Bướm ngay gần bên ngay đó (chúng tôi hỏi thăm và được cư dân bảo vậy, không biết có đúng hay là không).

Trà chanh vỉa hè trước Nhà Thờ Lớn, TP Hà Nội

Người Việt Nam thích những chiếc tên nôm na, không còn xa lạ, chẳng hạn như Lăng Bác Hồ được quen gọi là Lăng Bác Hồ. Khi cư dân gọi tên vị trí bằng những chiếc tên nôm na thì có nghĩa là họ có cảm tình với vị trí ấy. Ở TP Hà Nội có đền Tiên Thiên ở bờ hồ Hoàn Kiếm thờ chúa Liễu Hạnh lại quen được xem là đền Bà Kiệu (không hiểu vì sao lại mang tên như thế). Vườn hoa Diên Hồng ở cạnh hotel Metropole lại được cư dân TP Hà Nội quen gọi là vườn hoa Con Cóc (vì có tượng con cóc phun nước). Ở Thành Phố Hồ Chí Minh có hai cây cầu mới trên đường lớn Đông Tây không được lấy tên mỹ miều nào đấy mà vẫn lấy tên cầu cũ là cầu Cá Trê Lớn và Cá Trê Nhỏ (có lẽ chỗ rạch dưới cầu trước đó có khá nhiều cá trê). Con kênh có tên người lãnh đạo Võ Văn Kiệt thì được cư dân quen gọi là kênh Ông Kiệt (nghe là cảm nhận thấy trong lòng cư dân có sự trân trọng mến thương vị lãnh đạo cũng như mến thương con kênh đó)…

Nơi chốn… từ phương tiện giao thông

Xích lô TP Hà Nội

Phương thức di chuyển, cách sử dụng phương tiện giao thông cũng có thể là nhân tố tạo ra tinh thần nơi chốn và bản sắc của đô thị. Giả dụ Amsterdam lừng danh bởi cư dân đi xe đạp; Copenhagen được biết đến với văn hóa ẩm thực trên những tuyến đường đi dạo; Venice cuốn hút bởi hệ thống sông dày đặc cùng với những con thuyền là phương tiện giao thông chính của thành phố… Ở nước mình, đi xe máy đang là chủ đạo trong giao thông đô thị. Dù rằng đi xe máy có khá nhiều yếu điểm như độc hại không khí, không thực sự an toàn, dễ gây tắc đường… nhưng cũng rất đông người thấy được sự thú vị từ nó vì tính cơ động, quen thuộc với cuộc sống.

Không dừng lại ở đó, một vài đô thị nước mình (nhất là TP Hà Nội) vẫn còn lưu giữ được nét văn hóa giao thông xưa để biến nó trở thành 1 sản phẩm du lịch không thể không có cho những khách du lịch đến với các đô thị Việt Nam – Đấy là chiếc xích lô.
Xích lô (cyclo) do một người Pháp miền Charente tên là Coupeaud sáng chế ra vào năm 1939. Để quảng bá cho phương tiện giao vận mới này, Coupeaud đã tổ chức một cuộc hành trình với chiếc xe chở khách chạy bằng 3 bánh từ Phnompenh tới Sài Gòn, với 2 người đạp thuê đã thay phiên nhau đạp một mạch gần 200 kilomet trong khoảng thời gian 17 giờ 23 phút. Từ đấy, xe xích lô đóng vai trò quan trọng trong cách tân phương tiện đi lại trên các đô thị Việt Nam. Trong kháng chiến, xích lô trở thành phương tiện đắc lực phục vụ sản xuất và chiến đấu – Chở hàng hoá tại những nơi oto không đi được; chở người đi sơ tán, chở thương binh đến nơi cấp cứu, chở các phương tiện chữa cháy, chở đạn dược, khí tài ra trận địa… Thời nay, dù bị xe máy và oto thay thế, xích lô vẫn được dùng để làm phục vụ du khách muốn hưởng thụ văn hóa đô thị Việt Nam.

Ngồi trên xích lô, các khách du lịch có thể bình thản ngắm nhìn cảnh vật phố phường mà hoàn toàn không e sợ về an toàn giao thông, có thể hít thở không khí khói bụi nồng thắm, có thể nghe những âm thanh ì ào, có thể cảm giác làn gió mát mẻ tự nhiên lan tỏa trên da mặt… và đương nhiên là được trải qua lịch sử văn hóa đô thị Việt Nam.

Kết luận

Vườn hoa Con Cóc, TP Hà Nội

Như thế, một đô thị cuốn hút, đáng sống chưa chắc phải được tạo bởi những công trình hoành tráng, những con phố ngăn nắp, những phong cảnh theo tiêu chuẩn mà phải gắn bó với cuộc sống và hấp dẫn cư dân. Trên đây, chúng tôi chỉ kể ra một vài biểu hiện đặc sắc của những nơi chốn đô thị Việt Nam, chúng được gắn liền với chiều sâu văn hóa của người Việt. Một đô thị mà hoàn toàn không gắn bó với tâm hồn con người, không thể hiện được tinh thần nơi chốn, không chứa đựng chiều sâu văn hóa lịch sử, không hòa nhập vào cuộc sống con người thì chắc chắn đấy là một đô thị khiếm khuyết. Trong thực tiễn, còn nhiều biểu hiện thú vị khác trong những góc nhỏ đô thị Việt Nam mà chúng ta buộc phải khám phá thêm, bởi mỗi góc phố của Việt Nam là 1 kho tàng tiềm ẩn biết bao tài sản quý giá về văn hóa ngàn năm của dân tộc…

Tham khảo thêm: Nơi chốn – Sự trải nghiệm khác lạ và sắc sảo của cuộc sống

——————————————————————————————

Tài liệu tham khảo:

  • Vũ Hiệp. Đô thị Việt Nam, góc độ từ những nơi chốn.
  • NXB Xây dựng, 2016

KTS Vũ Hiệp

Bài đăng trên TCKT số 07-2016

Thêm nhiều thông tin hấp dẫn với BdsNhaDat.com.vn



T.H

Tham gia thảo luận

So Sánh BĐS

So sánh