Nhà mặt phố – thể loại nhà ở không còn xa lạ tại các đô thị Việt Nam tỏ ra có sức sống rất mạnh mẽ bởi những nguyên nhân kinh tế – xã hội. Mặc dù thế, sự đi lên tràn ngập của chúng lại ẩn chứa đựng nhiều tai họa thậm chí có thể là gánh nặng cho những thế hệ tương lai.
Một chút lịch sử
Chẳng cần phải có kiến thức về kiến trúc đô thị cũng có thể dễ dàng nhận biết thấy, 1 trong các nét đặc thù của những thành phố ở Việt Nam là những căn nhà chia lô chạy xuôi theo các tuyến giao thông, nhiều khi dài đến nỗi chẳng biết đâu là điểm chấm dứt. Không có ai biết chuẩn xác kiểu nhà này xuất hiện từ lúc nào, nhưng có khá nhiều dẫn chứng cho thấy vào thế kỷ 17-18, loại nhà này đã trở nên khá phổ biến tại khu 36 phố phường TP Hà Nội và khu phố cổ Hội An. Trong hoàn cảnh kinh tế xã hội thời kỳ đó, đây là kiểu nhà rất thích hợp bởi một vài nguyên nhân: Đầu tiên nó cho phép tập trung người dân tỷ lệ cao trong một khu vực kha khá chật hẹp – bởi thực chất của các khu phố này chính là chợ – nơi trao đổi, buôn bán hàng hóa. Thứ 2, nó hoàn toàn thích hợp với cách thức sống và cách thức mưu sinh của dân cư đô thị thời bấy giờ – sinh sống, làm nghề (bằng tay) và giao lưu kinh tế tại cùng một chỗ, trong cùng một căn nhà, trong đó mặt trước thường là nơi bán hàng, ngay phía sau là không gian sản xuất và trong cùng là nơi ở. Bình luận về loại hình trú ngụ này, nhà nghiên cứu người Pháp Philippe Papin cho rằng, “Đó chính là nét độc đáo của một cơ chế linh hoạt, đặc biệt thích hợp với những hộ kinh doanh nhỏ”.
Sang đầu thế kỷ 20, người Pháp đã căn bản phát triển TP Hà Nội theo mô hình đô thị phương Tây với sự mạch lạc của những không gian trung tâm và những tuyến đường thẳng tắp dẫn tới những tòa villa kiểu châu Âu ẩn mình trong lùm cây cối mát. Mặc dù thế, cùng với việc giữ lại những phố hàng đã có lịch sử tồn tại hàng trăm năm, trong giai đoạn đô thị hóa lần thứ hai (vào khoảng những năm 1930) họ đã cho xây dựng một vài khu phố dành riêng cho các viên chức bản xứ với những dãy nhà liên kế theo kiểu cổ truyền san sát nhau bám theo mặt đường, mà điển hình là các phố thuộc phường Bùi Thị Xuân thời nay. Đáng lưu ý là những khu phố này thời đó được xây dựng chủ yếu cho mục tiêu ở. Điều này biểu hiện tập tục mang tính văn hóa trong xây dựng nhà cửa vốn phổ biến trong những nền kiến trúc dân gian, mặc dù rằng những tính năng hay lối sống khởi nguyên – nguyên nhân chính cho cấu trúc và bố cục của chúng đã ít nhiều bị chuyển đổi. Mặc dù vậy, chẳng bao lâu sau, do nhu cầu của cuộc sống đô thị, những căn nhà tại các khu phố này đã dần thay đổi, tích hợp thêm tính năng kinh doanh và nhiều khi cả sản xuất tận chỗ, để sau cuối định hình nên những phố hàng kiểu mới như “phố thời trang” Trần Nhân Tông, “phố ẩm thực” Mai Hắc Đế hay “phố Cafe” Triệu Việt Vương…
Đến cuối thế kỷ 20 đầu thế kỷ 21, trong lúc những thành phố lớn ở khu vực Đông Nam Á như Singapore, Bangkok… không còn mặn mà với thể loại nhà này, hoặc chỉ giữ lại 1 phần ở khu trong đô thị lịch sử như là dẫn chứng cho thời kỳ đã qua, thì tại Việt Nam kiểu nhà mặt đường vẫn tiếp tục sinh sôi nảy nở. Nhất là từ sau thời kỳ mở cửa, với phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” kiểu nhà này lại được dịp bùng phát mạnh mẽ như nấm sau mưa. Chúng tràn ra các vùng ven đô của những thành phố lớn. Chúng rồng rắn xếp hàng xuôi theo các tuyến phố giao thông mới mở. Chúng chạy lên miền núi, xuôi ra miền biển. Chúng xóa nhòa ranh giới giữa đô thị và nông thôn. Chúng phá bỏ “hàng rào cách biệt” giữa đô thị đồng bằng và đô thị miền núi, len lỏi cả đến những làng quê xa xôi, hẻo lánh… E sợ tác động của kiểu nhà này đến mỹ quan đô thị, đã có thời TP Hà Nội ra văn bản cấm xây dựng nhà chia lô trong những KĐT mới. Nhưng đến hiện nay chẳng mấy ai còn nhớ đến sự tồn tại của chính nó.
Đôi lời phân tích và lý giải
Vậy vì sao nhà mặt đường lại có sức sống mãnh liệt đến vậy dù sự đi lên của chúng chẳng hề thích hợp với các nguyên tắc của quy hoạch modern hiện đại? Vì sao nhiều người vẫn trung thành với kiểu nhà cổ truyền này trong lúc hoàn toàn có điều kiện “upgrade nâng cấp” lên các căn hộ nhiều tầng tiện nghi và hợp vệ sinh hơn nhiều? Có rất nhiều cách phân tích và lý giải cho hiện tượng này, nhưng có lẽ hợp lí hơn cả là đi tìm kiếm nguyên nhân hậu góc nhìn kinh tế – xã hội và tâm lý ở của dân cư đô thị.
Trước hết, cần khẳng định ngay rằng kiểu nhà này cho tới bây giờ vẫn tiếp tục thích hợp với phần nhiều dân cư đô thị ở Việt Nam, bởi việc tiếp xúc trực tiếp với đường phố của các căn nhà này giúp người sở hữu của chúng có thể mưu sinh ngay tại nơi ở của mình. Một khi mức thu nhập từ đồng lương còn quá thiếu so với nhu cầu thì việc mở shop tại nhà hay cho thuê 1 phần S diện tích – điều khó triển khai ở căn hộ chung cư – có thể giúp gia tăng lợi nhuận 1 cách hiệu quả. Ở đây chúng ta lại bắt gặp cách thức bán lẻ lẻ cổ truyền có lịch sử tồn tại và phát triển từ hàng trăm năm ngoái từng làm ra sức lôi cuốn mạnh mẽ cho khu 36 phố phường TP Hà Nội. Đáng lưu ý là thói quen tiêu dùng hiện nay của người Việt cũng cổ súy cho xu thế này, khi mà đa số dân cư đô thị vẫn ưu ái các shop nhỏ ngay gần bên nơi trú ngụ hay tiện đường đi làm việc về, nơi họ có thể dễ dàng dừng xe máy hay xe đạp để nhanh gọn mua những mặt hàng thiết yếu hay vài món đồ lặt vặt.
Thứ 2, đấy là do quan niệm sống “gắn chặt với đất” đã ăn sâu vào tiềm thức của người Việt. Quan niệm này làm tăng thêm khát vọng nhận được ít nhất một “miếng đất cắm dùi” để xây dựng nhà cửa. Bởi thế tại các đô thị và ngay cả những vùng nông thôn đất chật người đông, khi chia đất đai cho con cháu phương thức phổ biến nhất mà người Việt chọn lựa là chia ra các mảnh chạy dài vuông góc với mặt đường. Điều này hẳn nhiên càng khuyến nghị sự đi lên của loại hình nhà mặt đường.
Tiếp nối, kiểu nhà này cho phép phát huy 1 trong các đặc điểm đặc thù trong lối sống của người Việt là sự hoạt bát trong ứng xử theo kiểu “ở bầu thì tròn ở ống thì dài”. Quả vậy, ngoài các việc có thể hoạt bát thay đổi tính năng của không gian sát mặt đường tùy theo nguyện vọng và phụ thuộc vào thời điểm vào ngày, họ có thể phát triển hoạt động ra cả không gian vỉa hè và coi đó như phần rộng mở nhà của mình – điều mà các dân cư chung cư khó lòng nhận được. Ở đây, chúng ta cũng bắt gặp cách sử dụng không gian nhiều chức năng hệt như ở các căn nhà dân gian cổ truyền vùng ngoại ô, nơi gần như không có không gian nào trong nhà chỉ dành riêng cho một tính năng đặc biệt nhất.
Viễn cảnh tương lai
Để có thể kiếm tìm lời giải đáp về viễn cảnh của nhà mặt đường, chúng ta hãy suy xét đối thủ cạnh tranh trực tiếp được dự báo sẽ thay thế chúng trong tương lai là chung cư nhiều tầng. Những ích lợi của loại nhà này đối với các đô thị modern hiện đại là điều dễ thấy, bởi vì nó cho phép tiết kiệm đất đô thị khi tăng tối đa phần người trú ngụ trong những tòa nhà nhiều tầng, đồng thời giải phóng mặt đất cho không gian xanh và tiện ích đô thị. Các dân cư đô thị mới sẽ được hưởng thụ hệ sinh thái sống văn minh hơn, thông thoáng và tràn trề ánh sáng. Tiếc rằng, sức lôi cuốn của những khu chung cư này đã và đang giảm đi rất đôi khi đa số chúng chỉ đơn giản là một dạng đô thị – phòng Ngủ, thiếu thời cơ việc làm tận chỗ và thiếu hạ tầng xã hội thiết yếu, trong lúc các tuyến giao thông kết nối chúng với phần còn lại của thành phố luôn chịu sự quá tải do không bắt kịp được nhu cầu, còn hệ thống giao thông công cộng thì vẫn “mãi không chịu lớn”. Hiểm nguy hơn, một vài nơi còn tận dụng phần nhiều đất trống đáng lẽ là khuôn viên cây cối hay sân chơi trẻ nhỏ để “nhồi nhét” thêm các tòa chung cư và biến chúng thành một dạng “nhà mặt đường nhiều tầng”.
Theo số liệu tính toán sơ bộ dựa trên Tiêu chuẩn Xây dựng Việt Nam 2008 trong quy hoạch nhà ở, bình quân S diện tích chiếm đất trên đầu người của nhà lô phố dao động trong tầm 12 – 16m2. Trong thời điểm đó bình quân S diện tích chiếm đất trên đầu người của chung cư có chiều cao 10 tầng chỉ đơn giản là 2,4 – 3m2. Chung cư càng cao định mức này càng giảm, tương ứng là khoảng 1,6 – 2m2 đối với chung cư 15 tầng và 1,2 – 1,5m2 đối với chung cư 20 tầng.
Nếu không có những thay đổi đột biến về kinh tế – xã hội, về tư duy quản lý và phương pháp quy hoạch kiến trúc các khu chung cư nhiều tầng, và cả về lối sống đô thị, không khó để có thể thấy rằng nhà mặt đường nhiều khả năng sẽ vẫn tiếp tục là chọn lựa số 1. Và cũng không khó để có thể tưởng tượng viễn cảnh ảm đạm của những thành phố, thị trấn, thị tứ trong tương lai. Sự bành trướng 1 cách thiếu kiểm soát của kiểu nhà này ra vùng ngoại ô ẩn chứa đựng nhiều tai họa. Một mặt, nó làm suy hạ thấp giá trị và sức lôi cuốn của khu trung tâm thành phố và tác động đến thẩm mỹ đô thị; mặt khác nó gây lãng phí do hiệu quả sử dụng đất kém. Các hệ thống hạ tầng cũng do đó mà trở nên rắc rối phức tạp và kém hiệu quả hơn. Còn hệ sinh thái sống thì càng ngày càng trở nên khó kiểm soát, cản trở nhu cầu nâng cao chất lượng sống cho những người dân đô thị…
Những hệ lụy mà “dịch bệnh nhà mặt đường” đưa đến cho những đô thị thời điểm đó có lẽ rằng sẽ để lại gánh nặng càng ngày càng lớn cho những thế hệ tương lai, mà có lẽ phải rất lâu sau mới có thể giải quyết hết.
PGS.tiến sĩ. Khuất Tân Hưng
Trường Đại học Kiến trúc TP Hà Nội
(Bài đăng trên TCKT số 01 – 2017)
Thêm nhiều thông tin hấp dẫn với BdsNhaDat.com.vn ❗
T.H