Các không gian xanh cổ truyền thường gắn với đất đai. Hiện tại, các đô thị trên thế giới đã bắt đầu thí điểm các cách thức trồng cây mới dựa trên các công nghệ mới nhằm bảo đảm tỷ trọng mầu xanh nội đô nơi càng ngày càng đối diện với tương đối nhiều vấn đề về hệ sinh thái. Một vài cách thức vườn đô thị mới đang rất phổ biến tại các thành phố trên thế giới như “vườn chia sẻ”, “vườn trên không”, “vườn thủy canh”, “vườn khí canh”. Ở Việt Nam hiện tại các loại vườn nói trên phần đông được đem vào đô thị 1 cách tự phát, thí điểm trên quy mô nhỏ, chủ yếu bởi các sáng kiến cá nhân. Bài báo nghiên cứu 1 cách hệ thống các cách thức vườn đô thị mới và tiềm năng của chúng, đồng thời đề nghị một vài hướng phát triển những S diện tích xây xanh modern hiện đại, bên cạnh những S diện tích cây cối cổ truyền, giúp cải thiện môi trường đô thị, giảm độc hại không khí và mang lại nhiều ích lợi khác cho những người dân và cộng đồng.
Các cách thức vườn đô thị mới
1. Các điều kiện sinh ra và phát triển
Người Việt Nam có cổ truyền sinh sống và canh tác gắn với mặt đất dù hàng ngàn năm qua. Tuy vậy, khi tỷ lệ dân số đô thị càng tăng, S diện tích những khoảng đất dành riêng cho vườn và cây cối càng hạn chế [1]. Trước thực trạng đó, việc kiếm tìm các cách thức vườn mới không sử dụng tài nguyên đất, phối hợp hoạt bát với các không gian thích hợp là cấp bách để thỏa mãn nhu cầu trồng trọt của người dân KĐT mới (KĐTM) nói riêng và đô thị nói chung.
Các không gian xanh công cộng trong những KĐTM, mặc dầu phục vụ cho quần chúng nhưng có thiết kế hoàn toàn bởi chủ đầu tư và quản lý hoàn toàn bởi Ban quản trị. Việc định rõ chủ thể và nguồn lực quản lý vận hành như trên đã hạn chế chính người dùng là dân cư tham dự vào việc thiết lập và duy trì không gian xanh. Chưa kể cách làm đó còn có thể dẫn đến việc các không gian có thể không thích hợp với nhu cầu sử dụng thực tiễn của dân cư.
Các cách thức vườn đô thị mới đã sinh ra như là những phương pháp có tiềm năng phát triển vững chắc. Các điều kiện đó gồm:
- Nhu cầu tự nhiên của một bộ phận người dân đô thị trong việc trồng trọt dựa trên sự ưu ái tự nhiên, nhu cầu có các hoạt động vận động trong cuộc sống modern hiện đại, nhu cầu tự cung ứng một vài sản phẩm nông nghiệp tận chỗ, nhu cầu trang trí, làm sinh động không gian ở, làm việc và nghỉ ngơi…;
- Sự thiếu vắng không gian mặt đất hoặc không gian chứa đất để thiết lập vườn theo cách bình thường. Do tỷ lệ xây dựng cao trong lúc mặt đất cần dành riêng cho nhiều mục tiêu sử dụng khác, nhất là giao thông, không gian chứa đất để trồng cây bên phía trong và ở trên công trình khá đắt đỏ và làm rắc rối phức tạp hóa nhiều vấn đề;
- Sự tiến lên của khoa học kỹ thuật liên quan đến trồng trọt cho phép trồng không cần đất, theo dõi, chăm lo auto tự động và công nghệ giống cây trồng;
- Sự tiến lên của social MXH và các vận dụng kinh tế giúp chia sẻ về nguồn lực, vai trò và trách nhiệm, trao đổi kiến thức, kinh nghiệm và tạo thành các cộng đồng, trào lưu.
Các cách thức vườn đô thị mới đã xuất hiện có thể được chia ra hai nhóm chính gồm các cách thức vườn mới dựa trên nhân tố sở hữu / sử dụng chung và các cách thức vườn mới dựa trên nhân tố kỹ thuật.
2. Các cách thức vườn đô thị mới dựa trên nhân tố sở hữu/ sử dụng chung
Bên cạnh phương thức cổ truyền của loại vườn nhỏ là sở hữu riêng và sử dụng riêng, các điều kiện mới cho phép ứng dụng các cách thức vườn đô thị mới dựa trên nhân tố sở hữu chung / sử dụng chung như sau:
- Vườn sở hữu chung – sử dụng riêng được nhóm dân cư hoặc cộng đồng đầu tư, xây dựng, quản lí và cùng sở hữu như 1 cách thêm tiện ích cho khu ở. Bên sử dụng là từng cá nhân trong Group sở hữu chung. Tuy vậy, mọi cá nhân chỉ được khai thác và sử dụng 1 phần vườn nhất định trong khoảng thời gian nhất định.
- Vườn sở hữu riêng – sử dụng chung được cá nhân hoặc tổ chức đầu tư, xây dựng, quản lí và sở hữu để cung ứng dịch vụ như 1 ý tưởng kinh doanh. Bên sử dụng gồm những người chủ sở hữu và những người hoặc cộng đồng mua dịch vụ. Bên mua dịch vụ sẽ được hỗ trợ không thiếu từ kỹ thuật, quy trình tới vật tư, cây giống …, được bảo đảm về chất lượng thành phẩm.
- Vườn sở hữu chung – sử dụng chung được nhóm dân cư hoặc cộng đồng đầu tư, xây dựng, quản lí và cùng sở hữu với các mục tiêu chung (phong cảnh, không gian chơi và phối hợp cung ứng nông sản tận chỗ).
Theo cách phân loại này, sở hữu không phải là “sở hữu đất” mà được hiểu 1 cách tổng quan là “sở hữu không gian chứa vườn”. Sử dụng vườn được hiểu là “tham dự vào quá trình chăm lo và duy trì vườn, đồng thời thu hoa lợi từ đấy”.
Việc sở hữu chung, sử dụng chung các vườn đô thị có thể mang lại nhiều giá trị khổng lồ. Đấy là những tiềm năng rất cần phải được khai thác và phát triển, gồm có:
- Giảm nhẹ gánh nặng của những công việc thiết lập và chăm lo vườn bằng phương pháp chia nhỏ cho nhiều người cùng ghánh đỡ, hoặc thậm chí thuê ngoài các phần rắc rối phức tạp;
- Tranh thủ, tận dụng các nguồn lực, tài nguyên của những bên liên quan, nhất là các không gian thuộc phần sử dụng chung, không gian cộng đồng của khu ở;
- Tạo điều kiện tăng và duy trì các tương tác tốt, nhiều ý nghĩa giữa những member thành viên của cộng đồng, từ những người tham dự trực tiếp vào việc thiết lập và duy trì vườn cho tới những người thụ hưởng từ nó;
- Tăng tinh thần nơi chốn cho người dân, giúp mỗi người cảm giác trực quan và liên tiếp về khả năng gắn bó của chính bản thân mình với nơi mình ở và cộng đồng của chính nó;
- Mang lại sự hoạt bát cao trong việc thiết lập và duy trì vườn nhờ khả năng vận dụng công nghệ thông tin và các nền tảng chia sẻ online.
Như thế, cách thức sở hữu chung – sử dụng chung là 1 cách thức vườn đô thị mới rất có tiềm năng, có thể tham dự hữu hiệu vào thiết lập nền tảng sinh thái xã hội – nhân văn cho đô thị mới, một cộng đồng gắn bó với nhau vì có chung mục đích, chung ích lợi, chung mối quan tâm và chia sẻ các giá trị cốt lõi [2]
3. Các loại vườn đô thị mới dựa trên nhân tố kỹ thuật
Ngoài giải pháp thổ canh cổ truyền, thủy canh, khí canh và các kĩ thuật quay quanh hai giải pháp này đang là giải pháp canh tác mới nổi trội hiện tại.
- Khái niệm:
- Thủy canh là kỹ thuật trồng cây không dùng đất mà trồng trực tiếp vào hệ sinh thái dinh dưỡng hoặc giá thể mà hoàn toàn không phải là đất. Các giá thể có thể là cát, trấu, vỏ xơ dừa, than bùn, vermiculite perlite… [3].
- Khí canh là 1 dạng mô hình của thủy canh. Hiểu 1 cách đơn giản nhất, khí canh là hệ thống trồng cây không cần đất, nước mà trồng trong hệ sinh thái không khí có chứa các giọt dinh dưỡng dưới dạng sương mù [3].
So với giải pháp thổ canh cổ truyền tùy thuộc vào đất đai, các giải pháp thủy canh và khí canh có những điểm mạnh đáng kể sau:
- Dễ dàng cung ứng chất dinh dưỡng tương ứng với từng giai đoạn phát triển của rau;
- Tiết kiệm S diện tích, không gian, dễ dàng tận dụng các khoảng không gian thừa trong nhà như ban công, sân thượng, hành lang,…;
- Tiết kiệm thời gian chăm lo, người sử dụng hầu như không phải can thiệp bằng tay quá là nhiều vào quá trình chăm lo và nuôi cây lớn;
- Cho năng suất cao gấp 3-5 lần so với cấy rau thổ canh bình thường, giúp người sử dụng giải quyết vấn đề về lượng rau cung cấp cho gia đình chỉ trong một khoảng thời gian ngắn;
- Loại trừ gần như tất cả các mầm bệnh trong đất;
- Tiết kiệm sức lực, tiền bạc, nhân công để chăm lo và thu hoạch rau lượng rau bảo đảm về độ ngon, sạch và an toàn;
- Sản xuất và phân phối tận chỗ không những giúp lương thực giữ được tươi mới, giầu dinh dưỡng, mà còn cắt giảm được kinh phí đóng gói, lưu trữ, mật độ hao hụt và phát thải CO2 do giao vận;
- Có thể ứng dụng nhiều công nghệ auto tự động từ gieo trồng đến chăm lo và bảo vệ
Các yếu điểm của những giải pháp thủy canh và khí canh gồm:
- Kinh phí lắp đặt cao;
- Yêu cầu kha khá chặt chẽ về quy trình và kỹ thuật;
- Giống cây trồng hạn chế: Một vài loại cây ăn quả, nhiều loại hoa, các loại cây, giống rau đặc điểm chưa thể sử dụng giải pháp thủy canh để thay thế.
Trên thực tiễn, giải pháp thủy canh và khí canh không những được ứng dụng trong những khu vực sản xuất nông nghiệp tập trung mà đã dần được dân cư đô thị vận dụng 1 cách nhỏ lẻ trong những không gian riêng theo nguyện vọng [4]; [5]. Điều ấy dẫn chứng cho độ khả thi và sự hiệu quả của giải pháp canh tác này.
Giá trị lớn nhất của những vườn đô thị theo giải pháp thủy canh và khí canh tọa lạc ở việc chúng hoàn toàn không tùy thuộc vào đất và không gian mặt đất. Điều ấy đồng nghĩa với mỗi căn hộ, mỗi công sở, mỗi tầng, mỗi tòa nhà và thậm chí cả mỗi sân thượng đều sở hữu thể được tích hợp không gian xanh mà gần như không làm phát sinh các vấn đề về trọng tải, về chống thấm và các hệ thống kỹ thuật khác. Nếu mà theo tiêu chuẩn mọi người trong đơn vị ở cần được cung ứng 2m2 cây cối mặt đất thì bằng sự việc ứng dụng giải pháp thủy canh và khí canh chúng ta chắc chắn có thể bổ sung thêm 1 lượng tương tự không gian xanh nữa. Đấy là chưa nói đến việc các vườn thủy canh và khí canh có thể được tích hợp ngay vào các không gian công năng làm tăng hiệu quả trực tiếp đối với người dùng.
Hiệu quả của những vườn thủy canh và khí canh sẽ còn được nhân lên đáng kể khi được ứng dụng cùng các cách thức sở hữu và sử dụng chung. Đấy là vì:
- Thủy canh và khí canh cho năng Suất cao nên có khả năng cung ứng nông sản cho nhiều gia đình, càng nhều người sử dụng càng hiệu quả;
- Phát huy các tiềm năng của cách thức sở hữu chung – sử dụng chung như đã nói bên trên, nhất là giảm được gánh nặng do kinh phí lúc đầu cao;
- Tính sạch của quá trình trồng và của dòng sản phẩm thu được của vườn thủy canh, khí canh rất thích hợp cho những không gian cộng đồng, không gian sử dụng chung.
Một vài đề nghị vận dụng các loại hình vườn đô thị mới cho KĐTM
1. Không gian chứa vườn có thể sử dụng với tương đối nhiều mục tiêu không giống nhau
Bình thường, các loại vườn thường chỉ với 1 trong hai công năng chính là vườn nông nghiệp hay vườn phong cảnh. Tuy vậy những tiến bộ khoa học mà căn bản đặc biệt là khả năng canh tác sạch (không cần đất, phân bón và các chất hóa học) và sự hoạt bát của những cách thức vườn đô thị mới đã có thể phối hợp hai công năng trên cũng như đa năng khác.
Các công năng có thể phối hợp trong không gian vườn đô thị mới gồm:
- Sản xuất nông sản (nông nghiệp);
- Trang trí phong cảnh, ngăn / chuyển tiếp không gian;
- Thư giãn, nghỉ ngơi (cả dạng thụ động và chủ động);
- Không gian chơi dành riêng cho con trẻ và các gia đình;
- Không gian học và thực hành;
- Không gian cộng đồng;
- Không gian chia sẻ, làm việc sáng tạo (coworking space);
- Không gian hỗ trợ các hoạt động đặc điểm như làm đẹp, chữa bệnh …
Phối hợp không gian xanh với các công năng khác sẽ tăng tính hiệu quả của vườn và lôi cuốn mỗi người. Theo một hướng khác, không gian chứa vườn đô thị mới có thể có tính chất tựa như những không gian biến đổi, tức chuyển từ công năng này sang công năng khác. Chẳng hạn như chuyển từ không gian cộng đồng sang không gian học và thực hành; chuyển từ không gian thư giãn, nghỉ ngơi sang không gian chơi …
2. Không gian xanh và sạch giúp liên kết cộng đồng
Như đã biết, cây cối và không gian xanh có khá nhiều ảnh hưởng tích cực về mặt tâm sinh lý đối với con người. Chính vì như vậy các không gian dành riêng cho các giao tiếp cộng đồng, nếu có sự hiện diện của cây cối sẽ trở nên rất hay và thú vị. Rào cản của sự phối hợp đó, từ trước tới hiện nay, căn bản là do những vấn đề liên quan đến kinh phí cao, vệ sinh rắc rối phức tạp và sự thiếu hoạt bát của những hệ thống cây cối trồng bằng đất. Những cách thức vườn đô thị mới đã khắc phục được đáng kể các rào cản này và mở ra khả năng lớn lao trong việc xanh hóa các không gian cộng đồng.
3. Thúc đẩy vận dụng các loại vườn có mức độ lệ thuộc đất đai thấp
Không gian xanh mặt đất cần phải được ưu tiên để trồng các loại cây vừa và lớn còn tại các không gian xanh bên phía trong và ở trên các phần của công trình nên sử dụng các cách thức vườn đô thị mới nhằm tăng hiệu quả sử dụng không gian, bảo đảm tính năng, tránh tăng trọng tải cũng như rắc rối phức tạp hóa các lớp cấu tạo.
Mô hình vườn thủy canh và khí canh là hai mô hình điển hình cho vườn không cần đất đai. Vườn thủy canh thay đất trồng bằng nước, giá thể (mùn cưa, vỏ cây, xơ dừa,…) là các loại nguyên vật liệu dễ thay thế, dễ luân chuyển, đôi lúc còn là những nguyên vật liệu tái chế góp thêm phần bảo vệ hệ sinh thái.
Cùng sự phổ biến của những tòa nhà nhiều tầng và những tiến bộ khoa học kỹ thuật đã nói bên trên, nhu cầu xanh hóa theo chiều đứng đã trở nên càng ngày càng rõ rệt. Tạo lên các không gian xanh bên trên cao không những còn là tạo nên những sự kinh ngạc thú vị của không gian trong và ngoài công trình nữa mà đã thành một xu thế đi theo triết lý kéo gần thiên nhiên tới mọi không gian của con người. Các loại hình vườn mới lệ thuộc đất đai thấp đã giải quyết càng ngày càng tốt hơn những nhu cầu đó, phù hợp với sở thích của mọi cá nhân, ứng với tất cả loại công trình. Nhiều chức năng, dễ lắp ghép, thuận tiện là những ưu điểm nổi trội của chúng.
4. Bảo đảm ích lợi kinh tế để duy trì vững chắc
Thực tiễn, tổng chí phí bỏ ra lúc đầu để thiết lập vườn và kinh phí chăm lo, duy trì vườn là những khoản đáng kể. Tuy vậy, cùng với mức thu nhập của dân cư và cộng đồng gia tăng đồng thời nhu cầu thiết lập các loại vườn đô thị mới gia tăng thì kinh phí thiết lập lúc đầu và duy trì vườn sẽ càng ngày càng giảm đi. Ngay từ lúc này nếu các quần chúng đồng thuận, chung tay đầu tư và cùng duy trì, khai thác với các cách thức sở hữu chung – sử dụng chung hoặc ứng dụng các nền tảng kinh tế chia sẻ thì việc vận dụng các cách thức vườn đô thị mới đã là hoàn toàn khả thi và vững chắc.
Kết luận
Các cách thức vườn đô thị mới dựa trên cách thức sở hữu chung – sử dụng chung hoặc dựa trên các tiến bộ khoa học kỹ thuật đã và đang mở ra tiềm năng lớn cho việc xanh hóa không gian ở đô thị từ bên phía trong, có nghĩa là từ các hộ gia đình, đến phía bên ngoài là không gian công cộng. Đây là phương pháp có sự sáng tạo, hợp xu thế và có tính vững chắc cho cả những vấn đề về hệ sinh thái, phong cảnh lẫn các vấn đề về môi trường xã hội – nhân văn. Do đó đó chính là 1 gợi nhắc tốt, một góc độ cần quan tâm trong những công tác thiết kế kiến trúc và quy hoạch từ cấp độ đô thị tới cấp độ từng không gian ở cụ thể.
tiến sỹ.KTS Hoàng Nguyên Tùng
tiến sỹ.KTS Trần Minh Tùng
ThS.KTS Ngô Thị Hà Thanh
Khoa Kiến trúc và Quy hoạch, Trường Đại học Xây dựng
(bài đăng trên TCKT số 10-2020)
Chú thích
Bài báo là kết quả nghiên cứu rút ra từ đề tài Khoa học Cấp trường năm 2019 của Giảng viên có tiêu đề “Nghiên cứu các cách thức vườn đô thị mới” mã số 02-2019/KHXD với sự hỗ trợ tài chính từ Quỹ Nghiên cứu Khoa học Công nghệ của Trường Đại học Xây dựng, và đề tài nghiên cứu Khoa học Sinh viên năm 2019 có tiêu đề “Xanh hóa các KĐT mới tại TP Hà Nội kinh qua vận dụng các cách thức vườn đô thị mới – Nghiên cứu thí điểm cho KĐT Linh Đàm” mã số KD-2019-39
Tài liệu tham khảo
- [1] Trần Minh Tùng, 2018, KĐT mới: Từ nguyên gốc lý thuyết đến biến thể thực tiễn, NXB Xây dựng, tr.190
- [2] Nguyễn Quang Minh, 2019, Mô hình sinh thái đô thị phù hợp cho những KĐT mới tại TP Hà Nội (Trường hợp nghiên cứu: KĐT mới Văn Quán), TCKT số 06-2019
- [3] https://vi.wikipedia.org/wiki/Thủy_canh
- [4] https://vietnamnet.vn/vn/kinh-doanh/thi-truong/trong-rau-khi-canh-trong-rau-tren-cot-nhua-vuon-cay-moc-nghieng-tren-lung-troi-411273.html
- [5] https://vietnamnet.vn/vn/kinh-doanh/thi-truong/de-dang-thuy-canh-tai-nha-giup-ban-co-vuon-rau-xanh-mon-mon-301732.html.
Thêm nhiều thông tin hấp dẫn với BdsNhaDat.com.vn ❗
T.H