Bảo tồn di sản văn hóa đô thị từ tiếp cận liên ngành ⭐


Bảo tồn di tích đô thị về thực chất là tạo lập cách thức dung hòa mối liên hệ giữa bảo tồn và phát triển. Việc phối kết hợp liên ngành trong bảo tồn là cấp bách để duy trì cấu trúc vật chất của di tích ở một mặt, và đồng thời cải tạo, tái sử dụng, thích ứng các giá trị vật thể và phi vật thể của chính nó vào dòng xoáy chảy của cuộc sống đô thị modern hiện đại ở một mặt khác.

Khu vực trung tâm thành phố gồm phong cảnh và những công trình kiến trúc tiêu biểu không những thuộc sở hữu di tích văn hóa vật thể, mà còn thuộc sở hữu di tích ký ức của cộng đồng. Trong ảnh: Trụ sở UBND TP Hồ Chí Minh trên đường Nguyễn Huệ, Q1, đã 109 tuổi. (Ảnh: Anh Tuấn)

Một đối tượng được gọi là di tích khi có các thuộc tính: tính truyền thông media, vì di tích luôn mang nhiều ý nghĩa với cộng đồng: sự hiện diện của di tích là thông điệp của cộng đồng gửi đến cho thế hệ sau, của một đô thị gửi đến cho khách du lịch, có di tích còn là biểu tượng của một thành phố; tính khoa học, vì di tích được thừa nhận thường có giá trị lớn về mặt lịch sử hoặc nghệ thuật; và tính kinh tế: di tích còn gắn liền với giá trị kinh tế và khi mất đi, nó có thể gây nên tổn hao cho những nghề cổ truyền, dịch vụ du lịch và văn hóa nghệ thuật… của cộng đồng.

Như thế, có thể nhận thức, di tích văn hóa đô thị gồm có các di sản khảo cổ học; hình thái và cấu trúc đô thị (gồm phong cảnh tự nhiên và phong cảnh nhân văn tựa như các công trình kiến trúc, quy hoạch đô thị); các công trình tiêu biểu cho lịch sử phát triển của đô thị; các loại hình văn hóa phi vật thể như lễ hội, lối sống, ngôn ngữ, ẩm thực, địa danh, ký ức thị dân…

Do di tích đô thị thường là những cấu trúc chân thực, có không ít thuộc tính, với sự tích tụ không hề thiếu nhịp điệu sinh hoạt và phát triển của chính nó trong quá khứ và cả hiện nay, cho nên việc bảo tồn các giá trị của chính nó cần phải có sự phối kết hợp của đa số ngành. Ví dụ, nếu chỉ tiếp xúc từ góc nhìn khảo cổ học cổ truyền thì khó có thể nhận thức hệ thống di tích văn hóa đô thị Sài Gòn – TP Hồ Chí Minh là “những di tích sống cùng thành phố” mà chỉ đơn giản là những di sản “chết”, trong lúc trên thực tiễn, nhiều di sản – đặc biệt là các công trình kiến trúc – đang tồn tại, được cộng đồng sử dụng và kinh qua đó thể hiện đời sống của một đô thị.

Một trong các phương pháp cơ bản để nhận định giá trị nhằm bảo tồn và phát huy hệ thống di tích đô thị Sài Gòn – TP Hồ Chí Minh nói chung là tiếp xúc liên ngành từ ngành nghiên cứu đặc điểm khảo cổ học đô thị, hay nói theo một cách khác là sự phối – phối hợp giữa khảo cổ học với khoa học về quy hoạch – kiến trúc đô thị, và trùng tu – bảo tồn di sản. Giải pháp nghiên cứu liên ngành cho phép bao quát được hệ thống di sản trên và dưới mặt đất của thành phố, đồng thời giúp tìm hiểu những nhân tố chuyên sâu về từng góc độ như khảo cổ, quy hoạch, kiến trúc, nghệ thuật…, như thế mới có thể vừa đạt yêu cầu về sự việc phát hiện các tư liệu lịch sử mới, vừa xác định phương hướng cho công tác quản lý, bảo vệ và phát huy di tích.

Qua thăm dò khảo sát và hệ thống những di sản, công trình thuộc sở hữu cấu trúc đô thị, phản ánh đời sống mọi mặt của đô thị, niên đại chủ yếu từ thế kỷ XVIII đến thế kỷ XX, trong đó có cả các công trình chưa được xếp hạng, hệ thống di sản khảo cổ học đô thị ở Sài Gòn – TP Hồ Chí Minh có thể chia ra chín loại hình, trong đó quần thể di sản của người Hoa ở Chợ Lớn với đặc thù biệt lập hợp thành 1 loại hình.

  1. Loại hình di sản khảo cổ học đã khai quật, dưới và trên bề mặt đất
  2. Loại hình phong cảnh đô thị (tuyến phố và bến sông)
  3. Loại hình công trình kiến trúc nghệ thuật
  4. Loại hình công trình tín ngưỡng, tôn giáo
  5. Loại hình nhà cổ truyền và villa
  6. Loại hình công trình hạ tầng và công nghiệp
  7. Loại hình di sản mộ táng, lăng tẩm
  8. Loại hình di sản thành lũy và công trình quân sự
  9. Loại hình quần thể di sản của người Hoa ở Chợ Lớn

Một vài trường hợp điển hình của “bất đồng giữa bảo tồn và phát triển” ở TP Hồ Chí Minh đều là những di sản có niên đại vào thời kỳ khởi lập và giai đoạn phát triển trước tiên đô thị Sài Gòn, khoảng thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XX. Các di sản đều sở hữu quy mô lớn, có mối quan hệ nghiêm ngặt với cộng đồng qua các sinh hoạt của con người – có nghĩa là di sản đã có lần/đang có đời sống của chính nó nội đô. Đấy là:

Di sản loại hình công nghiệp (6) như Lò gốm cổ Hưng Lợi và công xưởng Ba Son, theo quy luật của quá trình đô thị hóa, tất yếu phải chấm hết hoạt động để bảo đảm về hệ sinh thái và những vấn đề xã hội khác. Mặc dù thế, giá trị của chính nó sẽ không bị biến mất khi “cuộc sống” của chính nó được duy trì bằng “cách thức” khác: bảo tồn và phục dựng hoặc có công năng mới để phục vụ du lịch và mang đến giá trị lịch sử cho khu vực đô thị mới. Trên thế giới đã có không ít hình tượng về sự hồi phục giá trị những công trình như thế, trong đó trường hợp lừng danh là Nhà kho gạch đỏ Yokohama (Nhật Bản), một công trình kho vận trong hệ thống cảng Yokohama, được xây vào thời Minh Trị Duy Tân.

Trong quãng gần 80 năm, Nhà kho gạch đỏ đã tham dự vào quá trình mở mang và modern hiện đại hóa, được gọi là một chứng nhân quan trọng trong lịch sử cận đại của Nhật. Từ thời điểm năm 1989, nhà kho hoàn tất nhiệm vụ của chính nó và bị bỏ hoang phế. Năm 1992, thành phố Yokohama đã mua lại và có kế hoạch bảo tồn di sản này.

Kinh qua quá trình trùng tu và nghiên cứu phương án khai thác, năm 2002, Nhà kho gạch đỏ được hồi sinh và trở thành trung tâm du lịch lừng danh của Yokohama. Đây là 1 tổ hợp thương mại – văn hóa, với hơn 50 shop và nhà hàng, khu hội trường và không gian triển lãm. Năm 2010, đây là nơi trước tiên của Nhật Bản được nhận phần thưởng Di tích Châu Á-Thái Bình Dương của UNESCO.

Khu vực trung tâm thành phố (2) gồm phong cảnh và những công trình kiến trúc tiêu biểu không những thuộc sở hữu di tích văn hóa vật thể, mà còn thuộc sở hữu di tích ký ức của cộng đồng. Thay đổi, hủy hoại khu vực này dù với nguyên nhân thỏa mãn nhu cầu “modern hiện đại hóa” về cơ sở hạ tầng cũng chính là hành động xóa sổ ký ức lịch sử, cắt đứt quá khứ và sự “di truyền văn hóa” là tình cảm gắn bó với đô thị giữa những thế hệ thị dân, đồng thời cũng làm mất đi những “đặc thù” nhận diện Sài Gòn – TP Hồ Chí Minh đối với khách du lịch, trong đó gồm cả đặc thù về lối sống cởi mở, phóng khoáng, quan hệ thân mật, nghĩa tình của người Sài Gòn. Gìn giữ di tích văn hóa mang tính biểu tượng tại khu vực trung tâm thành phố còn là sự đối xử công bằng với quá khứ, trên tinh thần “hòa giải hòa hợp”.

Trường hợp quần thể di sản ở khu vực Chợ Lớn (9) và các công trình nhà thờ Công giáo (4) cho thấy vai trò của cộng đồng, gồm có cư dân và tổ chức dân sự, trong việc duy trì đời sống, sinh hoạt liên quan đến các công trình hay phong cảnh di sản.

Ví dụ, hệ thống di sản tín ngưỡng tôn giáo ở Chợ Lớn tồn tại gắn với đời sống cộng đồng người Hoa và họ luôn duy trì nghi lễ cùng những sinh hoạt khác tại đây, bởi thế việc bảo vệ, tu sửa di sản là trách nhiệm và từ nguồn góp phần của cộng đồng. Duy trì “bảo tồn” đời sống (văn hóa, kinh tế) một cộng đồng trong một khu vực địa lý nhất định là phương pháp gián tiếp bảo tồn di tích văn hóa.

Một thí dụ khác, Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn hiện bắt đầu được trùng tu lớn sau gần 140 năm tồn tại. Cuối tháng 6/2017, việc sửa chữa, trùng tu Nhà thờ mới chính thức khởi công nhưng ngay từ thời điểm tháng 8/2015, Tòa Tổng giám mục TP Hồ Chí Minh đã xuất bản bộ sách “Nhà thờ chính tòa Đức Bà Sài Gòn qua dòng thời gian 1880 – 2015” với hình ảnh đẹp trình bày toàn bộ bộ phận kiến trúc, trang trí của Nhà thờ, chỉ ra và nhận định mức độ cụ thể những nơi, chi tiết bị hư hỏng, đồng thời nêu rõ những vật liệu bị hư hỏng là dòng nào, nguồn gốc từ đâu, dự định chi phí mua nguyên liệu, công lao động…

Hiện tại phương án và kế hoạch trùng tu Nhà thờ được phổ biến đến giáo dân bằng clip 3D trên youtube và trong mỗi buổi lễ. Công khai và minh bạch những gì liên quan đến trùng tu Nhà thờ giúp giáo dân và cộng đồng nói chung hiểu biết tính cấp thiết, khoa học và giá trị di tích. Đó cũng chính là một trong tương đối nhiều phương cách huy động chi phí trùng tu Nhà thờ, qua đó cộng đồng tham dự kiểm soát nguồn ngân sách này.

“Xã hội hóa” việc bảo tồn và phát huy giá trị của di tích văn hóa có không ít cách thức, trong đó việc nâng cao hiểu biết và ý thức của cộng đồng là cực kì quan trọng. Khi ý thức khởi nguồn từ trí thức, cư dân sẽ tự giác tham dự bằng nhiều cách thức. Cộng đồng càng có ý thức xã hội thì yêu sách vai trò và trách nhiệm quản lý của nhà nước về di tích văn hóa càng phải cao hơn.

Vài trường hợp điển hình nêu trên là câu truyện về quá khứ và hiện nay của một vài loại hình di tích, từ tiếp xúc khảo cổ học đô thị trong mối quan hệ với những tiếp xúc từ góc độ kinh tế, xã hội và chính trị. Những câu truyện này chấm dứt “có hậu” hay là không, có nghĩa là tương lai của những di tích này còn hay mất… tùy theo cách ứng xử của chủ thể di tích: quần chúng nói chung và nói riêng là những giới liên lạc và ảnh hưởng trực tiếp vào di tích đô thị, đấy là chính quyền, nhà quản lý và nhà đầu tư.

Cần tầm nhìn nhà lãnh đạo, năng lực người quy hoạch, và hiệu lực pháp lý

Nhìn lại lịch sử Việt Nam từ thời kỳ phong kiến cho đến nay, có thể thấy quá trình phát triển đô thị của chúng ta là sự “chồng lớp”, trong đó luôn có xu thế thay thế di tích thời đại trước bằng các công trình của thời hiện nay. Một vài lần quy hoạch thành phố Hà Nội giữ lại được di tích của thời đại trước lại tình cờ là “cơ duyên” của lịch sử. Chẳng hạn như trong thời Pháp thuộc, thành phố Hà Nội đã mất mát rất là nhiều di tích, điển hình như thành cổ từng bị phá trong khoảng ba năm trời, hay trước đó có 21 cửa ô nhưng thời nay chưa đến Ô Quan Chưởng. Xu hướng phá hủy di tích đó chỉ thay đổi khi tới thời toàn quyền Paul Doumer: khi tới Việt Nam, ông ta đã kéo theo những KTS thiết kế và những người có trình độ hàng đầu của nước Pháp và chính họ đã giúp chúng ta giữ lại được 1 phần di tích quá khứ. Những KTS thiết kế ở Sở Kiến trúc đô thị Đông Dương thời kỳ này còn có công giữ được dấu tích của triều Nguyễn ở khu vực hồ Hoàn Kiếm, ở những công trình tôn giáo tín ngưỡng lẩn khuất trong những con phố ô bàn cờ hiện tại. Doumer từng nói: “Tôi sang quá muộn nên rất là nhiều thứ bị phá bỏ”.

Nhiều bài học về quy hoạch đô thị trong quá khứ cho thấy, việc gìn giữ di tích tùy theo tầm nhìn của các nhà lãnh đạo, của những cơ quan quản lý đô thị, những người phải đủ giỏi, đủ tầm để “đứng trên vai” di tích của người to lớn để lại.

Vấn đề cần thiết thứ 2 là phải có sự thống nhất về mặt khái niệm pháp luật. Hiện tại một vài khái niệm về di tích, di sản hay rất là nhiều khái niệm khác của ngành văn hóa không thống nhất và chưa “tương thích” với các văn bản quy phi pháp luật. Giả dụ, nếu các nhà nghiên cứu muốn bảo tồn di tích nhưng di tích đó chưa được công nhận là di sản thì không lúc nào giữ được cũng bởi vì các văn bản luật pháp về bảo tồn mới chỉ đề cập tới khái niệm “di sản đã được công nhận”.

Hiện tại, để thống nhất trong quy hoạch đô thị, giới quản lý cũng đang bàn tới việc hợp nhất các quy hoạch. Nếu quy hoạch hợp nhất khu vực trung tâm lịch sử của thành phố Hà Nội hay TP Hồ Chí Minh thì ít nhất phải bảo đảm được ba nhân tố: bảo tồn, xây dựng và kinh tế. Theo đó, những khái niệm trong quy hoạch xây dựng và quy hoạch bảo tồn phải được chỉ ra 1 cách chuẩn xác và đem vào các văn bản quy phi pháp luật, tránh thực trạng về sau có thể bị đánh tráo khái niệm, đánh lộn giữa những văn bản pháp quy với các văn bản có giá trị thời gian ngắn. Quyết định phê duyệt quy hoạch chỉ đơn giản là quyết định cá biệt mà hoàn toàn không phải là văn bản có tính quy phi pháp luật, nên đôi khi người ta có thể thay đổi. Bởi thế cần phải có luật lệ pháp lý chỉ rõ khu vực nào được xây dựng mới, khu vực nào không được xây dựng và buộc phải bảo tồn… Mặc dù thế, để lập được quy hoạch có tính toàn diện và rạch ròi như thế thì bản thân người làm quy hoạch phải có không hề thiếu năng lực cấp bách.

KTS Vũ Hoài Đức – Viện Quy hoạch xây dựng thành phố Hà Nội

Theo Nguyễn Thị Hậu/ Người đô thị

Thêm nhiều thông tin hấp dẫn với BdsNhaDat.com.vn



T.H

Tham gia thảo luận

So Sánh BĐS

So sánh