Trong trận lũ lịch sử năm 2000 và tiếp nối là 2 cơn lũ năm 2001, 2002, cư dân Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) đã chịu hao tổn nặng nề không những tài sản mà cả sinh mạng. Nhận định thực tiễn khi ấy cho thấy lý do đưa tới số mất mạng cao (nhất là con trẻ) vì trên 95% nhà ở của dân cư bị ngập nối dài, không có chỗ an toàn tránh trú. Một vấn đề nữa là suốt thời gian ngập lũ (trên 4 tháng), các hoạt động giáo dục, y tế, thương mại bị đình đốn, con trẻ không thể đến trường, chợ búa không hoạt động… Chính vì như vậy, chính phủ đã đề ra chương trình “dân sinh vùng lũ”, trong đó việc xây dựng “cụm tuyến người dân” được coi là “lõi” của chương trình, nhằm giúp cư dân sống chung với lũ. Bài viết này trình bày dựa trên qua điểm chuyên môn và quản lý về thành quả và tồn tại của chương trình qua hơn 15 năm triển khai, chủ yếu trên địa phận tỉnh Long An.
Kế hoạch triển khai
Theo số liệu thăm dò khảo sát lúc đầu, dự định Chương trình sẽ sắp xếp 200 cụm tuyến trên vùng ngập lũ tỉnh Long An với khoảng 40.000 hộ cần nhà tránh lũ (thời điểm năm 2000). Trên thực tiễn, tỉnh Long An đã tùy chỉnh xây dựng 165 cụm tuyến người dân với khả năng sắp xếp đến 33.700 lô nền. Theo số liệu thống kê năm 2017, tỉnh đã xây dựng 95/165 tuyến, cụm người dân với hạ tầng hoàn chỉnh; trong đó 150/165 tuyến cụm đủ hạ tầng căn bản. Sắp xếp được 33.738 mặt sàn nhà, trong đó đã xây dựng 17.262 nhà, số hộ thực vào ở là 16.765 hộ, số mặt sàn nhà chưa vây dựng 11.665, số hộ dân bỏ nhà đi là 497. Tổng vốn triển khai hạ tầng 938 tỉ đồng, còn nợ phải trả cho Ngân hàng phát triển 78,28 tỉ đồng.
Trong 15 năm, tỉnh Long An đã xây dựng được 104 cụm và 61 tuyến người dân vùng lũ, khả năng có thể sắp xếp trên 33.000 hộ gia đình với mỗi mặt sàn nhà khoảng 100 m², những cụm tuyến người dân khá hoàn chỉnh được kết nối hạ tầng căn bản như đường giao thông, điện, nước, trường học, trạm xá, chợ. Khu người dân có thiết kế vượt lũ năm 2000, bảo đảm khi có lũ lớn với tần số 70 năm, các hộ gia đình vẫn bảo đảm sinh hoạt thông thường. Cùng với việc dân tự nâng nền vượt lũ, hiện tại, trên vùng ngập lụt thuộc vùng Đồng Tháp Mười tỉnh Long An, trên 95% các hộ đã có thể yên tâm sinh hoạt vào mùa lũ, bảo đảm mục đích dân sinh vùng lũ của chính phủ đưa ra.
Kết quả
Chương trình này được phối hợp với kế hoạch nâng cao trình các trục giao thông nông thôn; người dân đã phát triển theo đó, tạo ra các vệt người dân được kết nối tốt với các trung tâm xã, huyện. Một vài cụm người dân đã thành các thị tứ tạo bước phát triển dịch vụ nông thôn cùng với công năng chỗ trú an toàn cho người dân trong mùa lũ. Đa số các trung tâm xã vùng lũ được sắp xếp trên cụm tuyến người dân, giúp bộ máy chính quyền điều hành hoạt động tốt, phục vụ tốt nhân dân (trước đó vào mùa lũ, chính quyền, đặc biệt cấp xã hầu như chỉ hoạt động cứu giúp, không có chỗ làm việc an toàn) (hình 1).
Cụm tuyến người dân đã giúp nâng cao mức thu nhập người dân với hoạt động buôn bán, dịch vụ, một vài cơ sở tiểu bằng tay phát triển ở đây giải quyết tương đối nhiều công ăn việc làm. Các hoạt động buôn bán giao thương diễn ra thuận tiện trong mùa lũ, 1 phần nhờ các trục đường được upgrade nâng cấp vượt lũ, 1 phần những cụm tuyến người dân được nối kết giao thông tốt (hình 2,3 ).
Đời sống văn hóa tinh thần của dân cư cụm tuyến tốt hơn với sinh hoạt cộng đồng, có điện nước, sóng truyền hình, điện thoại được phủ mọi địa điểm; con em được đến trường thông thường trong mùa lũ. Sức khỏe người dân nâng cao rõ rệt, được tiếp xúc chăm lo y tế và điều trị bệnh trong mọi thời tiết.
Những cụm tuyến tuy không sắp xếp đầy người dân như dự định nhưng đã tạo một quỹ đất để tiếp tục di dời dân đang sống ven kênh rạch. Việc phối hợp làm các công trình phúc lợi như trạm xá, trường học, khu Sport thể thao, chợ… đóng góp phần giảm chi phí khi xây dựng công trình cho nông thôn mới (nếu phải đền bù hiện tại chi phí rất rộng lớn). Thực tế chương trình cụm tuyến người dân tạo cơ sở rất tốt để xây dựng xã nông thôn mới trên khu vực Đồng Tháp Mười tỉnh Long An.
Hạn chế, lý do
Hạn chế lớn nhất về mặt quy hoạch là việc chọn địa điểm một vài cụm tuyến người dân vùng lũ không thích hợp khiến việc sắp xếp và lôi cuốn người dân không đạt, thậm chí không sắp xếp được hộ định cư. Kinh nghiệm cho thấy, thực tiễn thói quen của dân cư nông thôn khi trú ngụ phải gắn liền với ruộng vườn, không sống như đô thị ngay được. Mặc dù vậy, ý kiến quy hoạch khi đó đồng ý kiểu nhà ở “một kiểng hai huê”: Dân được sắp xếp nhà trong cụm tuyến người dân (cự ly không quá xa với ruộng đất canh tác) để trú ngụ bảo đảm an toàn trong mùa lũ, đặc biệt với người già và con trẻ. Hộ gia đình vẫn có “chòi” (nhà nhỏ) tại nơi đất canh tác của họ để phục vụ sản xuất lúc thông thường. Quan đặc điểm này không được ủng hộ do địa điểm khu người dân xa với đất canh tác của nông dân, vì một xã ở Long An khá rộng, có khi lên tới 8000 ha, và mỗi xã chỉ sắp xếp 1, 2 cụm người dân. Từ đấy người dân có đất canh tác ít vào, chỉ với những hộ nghèo, không đất đai mới vào ở.
Nhiều cụm tuyến không nằm tại vị trí thuận tiện giống như các trục đường, ven kênh rạch, có lợi thế cho thương mại dịch vụ, sắp xếp nhà chỉ để ở nên không tạo ra sự lôi cuốn dân cư gắn phát triển có sinh kế vững bền.
- Thực tế cho thấy, chỉ lôi cuốn dân vào cụm tuyến với mục đích cư ngụ là không thành công – sinh kế mới nhân tố quan trọng nhất để dân cư bám trụ dài lâu. Điều ấy dẫn đến nhiều hộ nghèo vào khu người dân trú ngụ 1 thời gian đã bỏ đi để tìm đất mưu sinh, rất là nhiều ngôi nhà đã bị bỏ hoang (hình 4);
- Cụm tuyến người dân được sắp xếp chỉ mang tính “chữa cháy”, thiếu xác định phương hướng phát triển dài lâu gắn liền với phát triển người dân. Chưa nghiên cứu vấn đề di dân hiện tại trong khu vực. 1 trong các hiện tượng ở nông thôn là có 1 luồng di dân mạnh mẽ từ nông thôn ra thành thị làm người dân trong tuổi lao động bỏ quê đến các vùng có công nghiệp, dịch vụ phát triển sinh sống. Tương lai của cụm tuyến người dân không định hình rõ;
- Các địa phương đã đề nghị quá là nhiều cụm tuyến người dân so với nhu cầu (vì cho rằng chính phủ sẽ giúp hoặc cho không), bởi vậy tạo một món nợ phải trả lớn, làm khó trong cân đối ngân sách trong tương đối nhiều năm;
- Các địa phương vùng ngập nông, khi sắp xếp cụm tuyến người dân hầu như không thành công, không lôi cuốn được dân vì sau 3 năm lũ lớn đến hiện nay gần giống như các vùng này không bị lũ tác động;
- Thời gian triển khai cụm tuyến người dân nối dài, các gia đình có điều kiện đã tự upgrade nâng cấp mặt sàn nhà chống lũ, việc chọn mua mặt sàn nhà trong cụm tuyến người dân chỉ để dự trữ, đầu cơ hoặc để dự định tách hộ cho con;
- Về quy hoạch, không thiết kế kiến trúc cho cụm tuyến; nhà cửa người dân xây dựng mang tính tự phát (dù cho có mẫu chỉ dẫn), không tạo được đặc thù kiến trúc mà mang dáng dấp của một khu định cư tạm (hình 5). Đa số là nhà cấp 4 với niên hạn sử dụng ngắn; các nhà do chương trình xây xuất bán cho dân với giá thấp thì chất lượng thấp, sau 10 năm bị xuống cấp trầm trọng. Luật lệ lô nhà liền kề như ở đô thị (100m2) không thích hợp với cuộc sống nông thôn vốn gắn liền với chăn nuôi, trồng trọt.
- Hạ tầng trong khu được bối trí quá tầm với khu người dân nông thôn (có những địa điểm đường, vỉa hè quá lớn), bởi vậy không đủ chi phí hoàn thiện. Hệ thống xử lý hệ sinh thái (rác, nước thải) hầu như không được xây dựng;
- Tình hình chuyển đổi khí hậu và ảnh hưởng các công trình trên dòng Mê Kông đang khó tiên đoán, khả năng lũ có thể lớn hay sẽ không có lũ trong tương lai là câu hỏi đang chưa có lời đáp.
Kinh nghiệm xây dựng cụm tuyến người dân tại Long An
Trong tiến trình xây dựng và vận hành cụm tuyến người dân vùng lũ, với các sai trái trong việc chọn địa điểm không thích hợp, cách sắp xếp hạ tầng, giải pháp kỹ thuật làm nền. Tỉnh Long An đã đề ra nhiều giải pháp khắc phục, rút kinh nghiệm trong việc triển khai những cụm tuyến người dân có hiệu quả.
- Công việc trước tiên gây nhiều tranh cãi là cụm tuyến người dân được xây dựng trên khu vực có đê bao hay tôn nền. Kinh nghiệm trong vùng lũ ngập vừa (<4m), cụm không lớn (<50 ha), hay tuyến người dân, việc chọn phương án tôn nền là hiệu quả. Thực tế tại Long An cho thấy việc xây dựng đê bao khá rắc rối phức tạp, không thực sự an toàn và khó vận hành trong lúc đầu tư không hẳn r;
- Sắp xếp hạ tầng (đặc biệt đường nội bộ, vỉa hè, kết cấu mặt đường) vừa phải và dần hoàn thiện khi có chi phí;
- Bạo dạn cho chuyển những cụm người dân vùng lũ không sắp xếp nhiều người dân sang mục tiêu khác để phát huy đầu tư (đặc biệt vùng ngập nông): Chuyển qua làm công nghiệp (Đức Huệ), làm KĐT, khu hành chính, khu văn hóa, trạm xá (Kiến Tường, Mộc Hóa, Tân Thạnh, Thạnh Hóa, Tân Thạnh, Bến Lức, Thủ Thừa) (hình 7);
- Sắp xếp chợ, trường học, trụ sở xã trong khu hoặc cạnh khu người dân sẽ mau chóng lôi cuốn định cư và biến nó thành thị tứ (Long An đã triển khai hàng chục địa điểm như thế) (hình 8).
- Tỉnh đã lôi cuốn được rất nhiều doanh nghiệp, nhà máy vào vùng lũ (Đức Huệ, Đức Hòa, Bến Lức, Thủ Thừa, Tân Thạnh, Thạnh Hóa, Mộc Hóa) tạo công việc cho dân cư vùng lũ, dân yên tâm trú ngụ trên cụm tuyến vì đã có sinh kế (hình 9).
- Sắp xếp tiểu bằng tay trong cụm tuyến, giải quyết việc làm (may gia công, đan lục bình…);
- Gắn chương trình cụm tuyến người dân vùng lũ với chương trình nông thôn mới, vừa cân đối vốn nhà nước, vận động nhân dân tham dự để hoàn thiện hạ tầng cụm tuyến. Trong đó việc phối hợp xây dựng trường học, chợ, trạm xá, khu văn hóa trong cụm tuyến sẽ hỗ trợ hoàn tất phối hợp cả hai chương trình.
Kiến nghị
Với các tồn tại trên, bài viết đề nghị một vài xác định phương hướng và phương pháp cho cụm tuyến người dân vùng lũ như sau:
- Soát lại toàn bộ những cụm tuyến người dân về tính hiệu quả từng dự án, có phương án cho mỗi địa điểm một để phát huy hiệu quả ngân sách đầu tư theo hướng sau:
- Các cụm tuyến chưa sắp xếp được người dân hoặc sắp xếp ít nên chuyển mục tiêu sang làm công trình công cộng của địa phương nếu thích hợp (nhà văn hóa, trường học, khu thể dục Sport thể thao…), hoặc nếu có nhà đầu tư cho chuyển qua đất công nghiệp, tiểu bằng tay nghiệp;
- Các cụm người dân đang phát huy tốt có thể trở thành các thị tứ thì quy hoạch lại, rộng mở theo hướng phát triển thành các đô thị nông thôn với hạ tầng đồng bộ.
- Lập thiết kế kiến trúc, hạ tầng để quản lý xây dựng, tạo không gian kiến trúc cho người dân trong cụm tuyến người dân;
- Lập tổng quy hoạch phát triển người dân tất cả vùng trong đó gắn liền với cụm tuyến người dân. Dự định sắp đặt, sắp xếp lại người dân trong vài thập kỷ tới khi dân số dịch chuyển từ nông thôn sang các vùng đô thị, một hiện tượng không thể tránh được trong xu thế phát triển kinh tế xã hội. Hạn chế các khu người dân bỏ hoang mà tương lai có thể xảy ra;
- Liên kết tốt chương trình xây dựng nông thôn mới với tùy chỉnh cụm tuyến người dân như sắp xếp công trình công cộng, giải quyết nhà ở cho những người dân, định cư cho những người bên trên thuyền, ven kênh rạch, Việt kiều Campuchia
- Thu hồi và có chính sách đền bù cho những hộ đã cất nhà nhưng không ở để sắp xếp cho những người có mong muốn;
- Thu hút đầu tư công nghiệp, tiểu bằng tay nghiệp vào khu vực để tạo công ăn việc khiến cho dân cư nông thôn vùng lũ để họ làm việc và trú ngụ tại quê nhà, giữ được dân cư trên cụm tuyến người dân khi họ có mức thu nhập tốt.
- Phát triển các đô thị trong vùng thành các trung tâm dịch vụ, tạo thêm công việc cho dân cư nông thôn sát bên;
- Xây dựng những cụm tuyến người dân đẹp, lôi cuốn du khách vùng nước nổi với phong cảnh nông thôn mới;
- Cho người dân trên cụm tuyến được quyền chuyển nhượng nhà đất hợp pháp; cho phép quy mô mỗi hộ có S diện tích to hơn trong cụm tuyến (để có thể xây dựng villa). Trung ương cho phép chính quyền địa phương chuyển mục tiêu cụm tuyến không hiệu quả;
- Sắp xếp chi phí (có thể bằng chính sách dùng quỹ đất cụm tuyến) để hoàn thiện hạ tầng cụm tuyến người dân.
Kết luận
Chương trình cụm tuyến người dân vùng lũ cho ĐBSCL nói chung và Long An nói riêng sinh ra trong hoàn cảnh lũ lụt lịch sử diễn ra liên tiếp trong 3 năm liền với hao tổn về người và của quá lớn, ý tưởng lúc đầu chỉ đơn giản là giải quyết được nơi cư ngụ cho dân, giảm hao tổn khi có lũ. Sau hơn một thập kỷ nhìn lại, phải thấy rằng mục đích quan trọng nhất của chương trình là bảo đảm tính mạng, tài sản của nhân dân vùng lũ lụt đã đạt được, mặc dù cho dự định vai trò cụm tuyến người dân không giống như lúc đầu. Chương trình này được sự hỗ trợ của những chương trình khác như cơ sở giao thông vùng lũ, đô thị vùng lũ, xây dựng nông thôn mới… Mặc dù vậy, vai trò của lãnh đạo trung ương và địa phương chưa xác định phương hướng việc phát triển cụm tuyến người dân trong dài hạn. Hiện tại, nhiều quan điểm cho rằng chương trình là lãng phí, không hiệu quả. Report báo cáo này tựa vào số liệu thực ở Long An đã cho thấy thành quả của chính nó dù rằng có những hạn chế. Hiện tại cũng chưa muộn để tùy chỉnh, gắn chương trình với phát triển nông thôn mới. Cần tùy chỉnh quy hoạch người dân giai đoạn phát triển kinh tế xã hội trong hoàn cảnh hội nhập. Bài viết đề nghị chính phủ nên tổng kết chương trình và đưa ra phương hướng gắn liền với quy hoạch và phát triển nông thôn trong hoàn cảnh mới, không để một chương trình hợp lòng dân bị quên lãng.
tiến sĩ. Nguyễn Thanh Nguyên
(Bài đăng trên TCKT số 11-2017)
Thêm nhiều thông tin hấp dẫn với BdsNhaDat.com.vn ⭐
T.H