Ấp Phũm Soài là tên thường gọi của 1 trong những tập hợp các tổ người dân, mỗi tổ từ 15 – 25 hộ gia đình, với thành phần người dân là người Chăm, tọa lạc tại xã Châu Phong, tỉnh An Giang. Thực chất của quy hoạch ấp Phũm Soài khá đặc biệt, được cấu thành bởi 14 tổ biệt lập và cách xa nhau, bao phủ và đan xen bởi cộng đồng người Kinh. Các tổ được gắn kết bằng giao thông cơ giới, tạo thành nên một quần thể mang không thiếu đặc thù của 1 “đơn vị ở” điển hình. Mỗi tế bào “tổ” chứa đựng trong nó những công năng ở thứ cấp và luôn có ít nhất 1 thánh đường ở mỗi tổ để phục vụ nhu cầu tôn giáo. Sở dĩ như thế, vì ấp Phũm Soài vốn được quy hoạch với tiêu chuẩn “phát triển đi trước, quản lý theo sau”, tức không có quy hoạch cụ thể cho ấp Phũm Soài từ lúc ban đầu, cứ chỗ nào có người Chăm, thì địa chỉ căn nhà đó sẽ được ghi là ấp Phũm Soài để phục vụ cho vấn đề quản lý.
Kinh qua thăm dò ý kiến nhận định tình hình quy hoạch ấp cũng như tích lũy thông tin từ trưởng ấp và ban quản lý khu vực, nhóm nghiên cứu đã đề ra các giái pháp chính trong việc chỉnh trang quy hoạch ấp Phũm Soài như sau:
Tăng tính kết nối khu vực trên cơ sở cải tạo quỹ đất thừa thành không gian sinh hoạt nhiều chức năng
Trong một cộng đồng người Chăm, thánh đường và tiểu thánh đường là nơi tạo được mối quan hệ nhiều nhất giữa những dân cư trong một tổ. Có công năng về giáo dục, tôn giáo, hành chánh, du lịch và sinh hoạt cộng đồng. Tuy vậy, nơi đây lại mang một vài hạn chế về đối tượng tiếp xúc như: Chỉ dành riêng cho các giáo đồ nam, không gian nhỏ, khép kín. Có thể nói rằng rằng, không gian giao lưu văn hoá đặc biệt nhất của cộng đồng người Chăm tuy nhiều chức năng nhưng lại giới hạn về đối tượng tham dự. Trên cơ sở đó, nhóm nghiên cứu đưa ra định huớng tận dụng các không gian rỗng, tổ chức không gian đa năng, là nơi họp chợ – giải quyết vấn đề “chợ di động” hiện nay.
Kiến nghị tuyến phố du lịch văn hoá nhằm giải quyết vấn đề kinh tế và nguy cơ mai một làng nghề cổ truyền
Kinh qua thăm dò ý kiến, nhóm tổng hợp và đề ra những nguyên nhân khiến du khách đến với Phũm Soài như sau:
Nguyên nhân khiến khách du lịch quốc tế đến với ấp Phũm Soài
Tuy vậy, ấp Phũm Soài lại đang đứng trước nhiều thử thách như:
- Một vài các nhân tố văn hóa đang có nguy cơ bị mai một vì nhiều nguyên nhân trong đó nguyên nhân về kinh tế;
- Thiếu gắn kết giữa những tổ như đã phân tích;
- Kinh tế vùng còn gặp nhiều trở ngại, nhiều dân cư bỏ xứ đi nơi khác kiếm sống.
Lý do khiến khách du lịch quốc tế đến với ấp Phũm Soài
Địa điểm tuyến phố du lịch – văn hoá đề nghị được thể hiện trên map bản đồ đáp ứng những nguyên nhân sau:
- Tọa lạc tại trung tâm ấp, là mạng lưới chính gắn kết các tổ và cụm tổ trong quy hoạch ấp Phũm Soài, có khả năng kết nối với các tổ khác;
- Băng qua các công trình công cộng trọng điểm;
- Nơi các buổi giao lưu sinh hoạt văn hoá, các lễ hội đặc thù của người Chăm diễn ra định kì (tận dụng khuôn viên của trường tiểu học để tổ chức);
- Nơi căn bản được chỉnh trang về mặt thẩm mỹ của những nhà;
- Căn bản kết nối được tất cả các điểm đến của khách du lịch trong tuyến du lịch Phũm Soài – Đa Phước.
Việc đề nghị tuyến phố du lịch – văn hoá cũng đóng góp thêm phần vào việc bảo tồn làng nghề cổ truyền của người Chăm nơi đây. Nghề dệt thổ cẩm cổ truyền đã tồn tại hơn 100 năm, theo người Chăm từ lúc họ mới đến vùng đất này. Sở dĩ vậy là do đây là 1 ngành nghề với mục tiêu lúc ban đầu là tự cung tự cấp cho những người Chăm trong cùng 1 làng; cộng với tục “cấm cung” của người Chăm và nghề dệt vải tạo thành nên từ đấy. Nghề bằng tay cổ truyền tính đến thời điểm bây giờ tại ấp Phũm Soài hầu như chưa đến 1 hộ còn kinh doanh buôn bán phối hợp cho khách tham quan và giới thiệu sản phẩm. Chủ nhân ở đây kiên trì với nghề vì đấy là nghề do tổ tiên truyền lại, dù chính hậu duệ của họ cũng tựa như các hộ gần đó đã chuyển qua kiếm sống bằng nghề khác.
Nhóm nghiên cứu cho rằng nghề dệt thổ cẩm cổ truyền có nguyên nhân để tồn tại như 1 cách thức du lịch, kinh doanh buôn bán và tiếp thị sản phẩm cổ truyền địa phương; nhưng thiếu nguyên nhân để phát triển tiếp trong tình hình hiện tại như 1 ngành nghề để nuôi sống dân cư.
Cũng bởi vì lẽ đó, trên cơ sở đề cao việc duy trì các giá trị nghệ thuật cũng như cổ truyền mà nghề dệt thổ cẩm đã được khẳng định tại nơi đây, nhóm nghiên cứu đề nghị duy trì và tổ chức lại làng nghề dệt cổ truyền tại ấp Phũm Soài bằng phương pháp đưa ra các chính sách liên quan đến việc duy trì làng nghề cổ truyền như:
- Mua trả góp máy dệt (máy may, dụng cụ sản xuất dệt,…);
- Mở các lớp dạy nghề dệt thổ cẩm cổ truyền cho những người Chăm trẻ hoặc người muốn học nghề dệt thổ cẩm (người Kinh, du khách,…), mở các workshop thời gian ngắn với cách tổ chức sáng tạo nhằm tiếp thị và hấp dẫn sự chú ý của cộng đồng đối với nghề dệt thổ cẩm cổ truyền;
- Hỗ trợ các chi phí liên quan đến hoạt động duy trì làng dệt, hỗ trợ nguồn nguyên, nguyên vật liệu và bảo đảm đầu ra, bảo đảm thị trường ổn định cho sản phầm dệt (dành cho những người Chăm ở khu vực gần kề, các sản phẩm lưu niệm, sản phẩm xuất khẩu,…);
- Gắn kết với các trường ĐH, các trung tâm nghiên cứu và vận dụng công nghệ vào trong sản xuất dệt bằng tay nghiệp nhằm nâng cao chất lượng, giảm kinh phí, nhân công, thời gian;
- Không chỉ có vậy buộc phải tổ chức lại hệ thống làng nghề với quy mô gồm: Một điểm lớn tập trung và các điểm nhỏ phân bố xuôi theo tuyến phố kết nối các tổ; phối hợp với tuyến phố du lịch – văn hoá đã đề nghị trong quy hoạch ấp Phũm Soài.
Như đã phân tích, việc phát triển nghề dệt với vai trò là nghề kiếm sống cho những người dân hầu như chưa khả thi trong tình hình hiện nay, chỉ với khả năng phát triển với vai trò là 1 nơi bảo tồn, khu trưng bày các loại máy dệt, công đoạn dệt cổ truyền của người Chăm và có lãi từ hoạt động khai thác du lịch. Trước tình hình đó, nhóm tác giả đề nghị xác định phương hướng chuyển đổi phần “xác” để củng cố phần “hồn” cho căn nhà gồm có 2 hạng mục sau:
- Tái tổ chức không gian của căn nhà trên cùng một S diện tích thực trạng để trở thành công trình phối hợp không nhà ở và không gian trưng bày sản phẩm, tiếp thị du lịch – giới thiệu sản phẩm nghề;
- Di dời địa điểm của căn nhà để toạ lạc thuận lợi hơn về mặt du lịch: Dễ tiếp xúc, gần trục đại lộ, có khả năng phối hợp với tuyến phố du lịch – văn hoá đã đề nghị, đồng thời tái tổ chức các không gian kinh doanh, sản xuất sản phẩm dệt bằng tay vào trong căn nhà cấp khung hiện hữu.
Như thế, những xác định phương hướng nêu trên nhằm đề nghị hướng giải quyết và mục đích cho các vấn đề như sau:
- Kinh qua việc tổ chức lại không gian hướng đi mới cho việc duy trì và phát triển làng nghề theo sách lược thích hợp với tình hình hiện nay và xác định phương hướng quy hoạch tương lai của ấp. Duy trì phải đi đôi với phát triển, đặt dân cư lên bậc nhất thì bảo tồn mới hiệu quả;
- Tổ chức các không gian sinh hoạt đa năng nhằm “lấp đầy” các không gian còn trống, đồng thời tạo các điểm tập trung người, củng cố mối quan hệ của người dân trong khu vực ấp;
- Kiến nghị tuyến du lịch mới và các hoạt động văn hóa song song, vừa hấp dẫn du lịch, vừa tăng ích lợi kinh tế vừa giúp tiếp thị văn hóa đặc thù của người Chăm Hồi giáo.
*GVHD: ThS. KTS Nguyễn Bích Hoàn,
ThS. KTS Phan Lâm Nhật Nam
**SVTH: Giang Lệ Anh, Phạm Tuấn An,
Nguyễn Phương Thảo,
Trần Hoàng Minh Duyên
Trường Đại học Kiến trúc Thành Phố Hồ Chí Minh
(Tóm tắt đề tài NCKH sinh viên ĐH Kiến trúc TPHCM 2019 giải 2 cấp Trường, giải 3 Eureka, giải Khuyến nghị cấp Bộ)
(Bài đăng trên TCKT số 03-2020)
–––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Spatio–temporal distribution of rice phenology and cropping systems in the Mekong Delta with special reference to the seasonal water flow of the Mekong and Bassac rivers.
- Luận văn Thạc sĩ Lịch sử – Hiện trạng đời sống kinh tế – Xã hội – văn hóa của cộng đồng người Chăm ở An Giang từ sau năm 1975 tới nay – Nguyễn Thanh Dung) trong đời sống kinh tế – xã hội – văn hóa của cộng đồng người Chăm ở An Giang từ sau năm 1975 tới nay.
- Luận án tiến sỹ Huỳnh Văn Khang.
- Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 134/2004/QĐ-TTG ngày 20 tháng 7 năm 2004 về một vài chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống trở ngại.
- QĐ 105/2002/QĐ-TTG về chính sách cho những hộ dân vùng ngập lũ mua trả chậm sàn nhà và nhà ở trong những cụm – tuyến người dân ở đồng bằng sông Cửu Long.
- Quyết định số 35/2014 QĐ-UBND về sự việc phát hành luật lệ quản lý, sử dụng và phát triển cụm tuyến người dân sau đầu tư trên địa phận tỉnh An Giang.
- “Người Chăm Hồi giáo miền Tây Nam – Nguyễn Văn Luận – 1971”
Thêm nhiều thông tin hấp dẫn với BdsNhaDat.com.vn ⭐
T.H