Đô thị hoá khu vực ven đô TP Hà Nội và những thách thức đặt ra ✅


1. Đặt vấn đề:

Quá trình đô thị hoá (ĐTH) ở các nước cũng như ở Việt Nam đã là động lực bẩy phát triển kinh tế, văn hoá xã hội, kinh tế đô thị chiếm tỷ trọng chi phối trong tổng GDP, góp thêm phần đẩy cao giá trị sản xuất công nghiệp, giá trị xuất nhập khẩu, tạo điều kiện thuận tiện tiếp xúc tiến bộ khoa học công nghệ, đã góp thêm phần nâng cao chất lượng sống cho tất cả những người dân…

Song bên cạnh ảnh hưởng tích cực cũng nảy sinh nhiều vấn đề nan giải như: áp lực dân số, giao thông, hệ sinh thái, bất cập giữa khu vực đô thị với khu vực nông thôn…

thành phố Hà Nội (ảnh minh họa: Ashui.com)

Hiện trạng này đã yêu sách Việt Nam cũng như nhiều đất nước phải xây dựng sách lược phát triển tổng thể đô thị Đất nước cùng với sách lược phát triển nông thôn, nông nghiệp đất nước. Không chỉ có thế khái niệm đô thị, hệ thống đô thị mỗi đất nước có đặc điểm. Với Việt Nam nội đô có nội thành, nội thị và ngoại thành, ngoại thị với tỉ trọng phát triển không giống nhau cho mỗi đô thị nên ngoài nghiên cứu đô thị hoá nói chung cần suy xét cụ thể cho mỗi đô thị để có phương pháp phát triển ngoại thành phù hợp. Tìm phương pháp phát triển phù hợp cho vùng ngoại thành, ven đô còn góp thêm phần phát triển mỗi đô thị và hệ thống đô thị vững chắc.

2. Hiện trạng khu vực ngoại thành nội đô Việt Nam:

  • Hoạt động sản xuất nông nghiệp: Nông nghiệp ngoại thành có cơ cấu ngành nghề đang cải tiến để tương xứng với vai trò, địa thế từng đô thị. Sản xuất nông nghiệp hiện ít vùng chuyên canh lớn, việc bàn giao công nghệ được lưu ý nhưng hiệu quả chưa cao. Hệ thống kết cấu hạ tầng chưa đồng bộ, chưa liên kết với trong đô thị, với vùng. Đời sống mức thu nhập của nông dân còn thấp, đang có xu thế nông dân tách khỏi nông nghiệp dẫn đến đất đai hoang hoá hoặc hiệu quả sản xuất chưa cao.
  • Hoạt động sản xuất tiểu, bằng tay nghiệp: Đặc thù sản xuất ngoại thành có các làng nghề là phổ biến ở các đô thị song quy mô sản xuất nhỏ, lao động có kĩ thuật thấp, còn thực trạng độc hại. Gắn kết giữa doanh nghiệp, khoa học với làng nghề chưa tạo được quan hệ nghiêm ngặt, bình đẳng. Với khá nhiều đô thị thì mô hình bảo tồn, phát triển làng nghề đặc biệt là với làng nghề cổ truyền sẽ góp thêm phần nâng cao mức thu nhập cho tất cả những người dân đồng thời tạo cổ truyền sẽ góp thêm phần nâng cao mức thu nhập cho tất cả những người dân, đồng thời tạo đặc thù, tạo ra cạnh tranh đô thị.
  • Không gian cảnh quan kiến trúc: Các đô thị Việt Nam phát triển từ nông thôn nên không gian cảnh quan kiến trúc ngoại thành luôn có vai trò nhất định với đô thị. Song quá trình đô thị hoá cần nhận diện giá trị để có phương pháp phù hợp là bảo tồn, hoặc cải tạo chỉnh trang hay xây dựng theo mô hình đô thị mới.
  • Cư dân: Cư dân đô thị tăng nhanh là hiện trạng song có sự khác lạ: tăng tự nhiên, di cư hoặc rộng mở địa giới. Xét riêng với người dân ngoại thành luôn là đối tượng dễ bị tổn thương nhất “chuyển vào đô thị hoặc biến đổi nghề, hay đào tạo lại lao động để phù hợp với lao động đô thị, nông nghiệp đô thị mà hoàn toàn không di dời nơi ở.
  • Hiện trạng quản lý ngoại thành, ven đô: Đất đai ngoại thành đang suy giảm nhanh khi đô thị hoá cao. Nay đã vượt qua ngưỡng dự báo: Sách lược phát triển đô thị năm 1998 dự định đến năm 2020 đất đô thị là 450.000ha nhưng chỉ đến 2005 đã lên tới 480.000ha. Thực trạng này dẫn đến thiếu kiểm soát ngoại thành, ven đô. Quản lý phát triển ngoại thành hiện được làm theo cơ chế chung về quản lý của chính quyền địa phương. Quy hoạch nông thôn mới ngoại thành được thực hiện theo luật lệ chung về quy hoạch nông thôn mới chung của đất nước. Chưa định rõ tiêu chuẩn đặc điểm để thích hợp, gắn liền với quy hoạch chung đô thị.
    Từ khái quát chung hiện trạng ngoại thành, ven đô như trên cho thấy cần phải có phương pháp phù hợp để phát triển ngoại thành, ven đô hài hoà với tất cả đô thị.

3. Thử thách với ngoại thành, ven đô thành phố Hà Nội từ quá trình đô thị hoá:

3.1. Đặc điểm về cấu trúc, mô hình phát triển thành phố Hà Nội:

Theo quy hoạch được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt năm 2011 Thủ đô thành phố Hà Nội phát triển theo mô hình chùm đô thị gồm đô thị trung tâm, 5 đô thị vệ tinh và các thị trấn kết nối bằng hệ thống giao thông, đường vành đai, đường gắn kết đất nước. Hành lang xanh (vành đai xanh, các lõng xanh…) phân cách các đô thị vệ tinh, thị trấn. Với mô hình cấu trúc này cần phân loại ngoại thành để có xác định hướng thích hợp công năng từng khu vực.

Xác định hướng đến 2030 dân số 9,0 – 9,2 triệu con người, tỉ lệ đô thị hoá 65 – 68%. S diện tích đất xây dựng đô thị và nông thôn khoảng 160.000ha, trong đó đất xây dựng đô thị 95.000ha (28,3% S diện tích tự nhiên). Ngoại thành với 9 huyện hiện còn tới 2045,2ha chưa sử dụng. Với cấu trúc, mô hình như thế rất cần ngoại thành phát triển vững chắc liên kết với trong đô thị để sớm hoàn tất mục đích căn bản về công nghiệp hoá, modern hiện đại hoá (trong 21 tiêu chuẩn, định mức thành phố Hà Nội đang chỉ tiêu để đạt được có liên quan đến phát triển ngoại thành).

3.2. Cơ cấu sản xuất:

thành phố Hà Nội đang dẫn đầu cả đất nước về xây dựng nông thôn mới, phát triển ngoại thành. Đến năm 2015 ngoại thành đã có 255/386 xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới và phấn đấu để đến 2020 có 80% xã và 8-10 huyện đạt chuẩn. Lao động nông nghiệp còn dưới 20% lao động xã hội, 70 – 75% lao động nông nghiệp qua đào tạo. Công tác dồn điền đổi thửa, đưa cơ giới hoá vào sản xuất và triển khai các vùng chuyên canh tập trung quy mô lớn như vùng trồng lúa, hoa, cây kiểng chất lượng rất tốt, nuôi trồng thuỷ sản, rau an toàn, chăn nuôi tập trung đã nâng giá trị mức thu nhập bình quân lên cao. Một vài mô hình sản xuất mới đã tạo ra (doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp gắn kết, HTX…) nhưng mô hình hiệu quả vững chắc chưa nhiều. Trở ngại, thử thách trong thời gian tới là đẩy mạnh chuỗi gắn kết trong sản xuất tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, chọn lựa mô hình sản xuất phù hợp từ sản xuất kinh tế hộ gia đình sang sản xuất quy mô lớn, trang trại… để phát huy giá trị các vùng chuyên canh.

Khi nông nghiệp hòa vào đô thị (Nguồn: Internet)

3.3. Phát huy ưu thế “làng nghề“, làng cổ truyền:

Cảnh quan kiến trúc thành phố Hà Nội tạo ra không những từ phố phường mà còn từ các làng cổ truyền đặc thù của vùng đồng bằng Bắc Bộ. Bộ mặt thành phố Hà Nội không thể đối lập, phủ định làng quê mà cần kế thừa. Ở đây cần phải có nhận biết không phải bảo tồn như với cùng 1 di sản mà là gìn giữ “một thân thể sống”. Rất cần Thành phố có xếp hạng, phân loại để có cấp độ bảo tồn không giống nhau.

thành phố Hà Nội có 1350 làng nghề và làng có nghề, trong đó 257 làng được Thành phố công nhận là làng nghề, đây là những mô hình “trụ đỡ” trong xây dựng ngoại thành vừa tạo nguồn thu cho nông dân, nâng cao góp phần vào phát triển kinh tế cho Thành phố và biến đổi lôi cuốn lao động. Theo thống kê vừa mới đây chỉ có các làng nghề đã tạo ra lợi nhuận  20.000 tỷ/năm. Điển hình như: sản xuất đồ mộc, may ở Thạch Thất, gốm sứ Bát Tràng, vàng bạc Kiêu Kỵ… Với mục đích Thành phố (2012) “mỗi làng 1 sản phẩm rất cần công tác quy hoạch nông thôn mới phải gắn liền với tổng thể QHC xây dựng để tìm sự liên kết từ hệ thống giao thông, từ chọn lựa khu vực hợp lí cho đô thị hoá, dành đủ đất phù hợp cho sản xuất làng nghề, cải tiến mô hình quản lý để tiết giảm độc hại hệ sinh thái, thích ứng với chuyển đổi khí hậu. Cùng với cải tiến sản xuất với các làng nghề hiện còn thử thách giữa phát triển, vận dụng kỹ thuật mới với bảo tồn giá trị di tích, phát triển sản phẩm đặc điểm hoặc phối hợp sản xuất với du lịch, làng sinh thái. Chọn lựa mô hình sản xuất hợp lí (hộ cá thể, HTX, doanh nghiệp…).

3.4. Cải tiến công tác quy hoạch ngoại thành:

Từ mô hình cấu trúc đô thị đã định rõ sự tồn tại của nông thôn ngoại thành, ven đô là khẩn cấp nhưng tồn tại phát triển ra làm sao để có hiệu quả cần phải có xác định hướng từ rà lại quy hoạch cũ, tạo lập nghiên cứu quy hoạch với yêu cầu phù hợp đa ngành, vừa ổn định sản xuất, củng cố nông thôn gắn liền với đô thị hoá của thành phố Hà Nội. Rất cần phối hợp xây dựng nông thôn mới gắn liền với phát triển đô thị, quản lý dân số, lao động, an ninh thực phẩm, tiết giảm ảnh hưởng của BĐKH, đáp ứng không gian xanh cho cả đô thị. Chọn lựa mô hình quy hoạch ngoại thành không thể chỉ tựa vào đơn vị hành chánh mà cần theo phân vùng công năng sản xuất dài lâu, với content nội dung cải tiến, tích hợp đa ngành định rõ bước tới cho mỗi giai đoạn để đô thị thành phố Hà Nội không thể là chắp vá. Đây là thử thách cần nghiên cứu kiến nghị mà trách nhiệm trước tiên là của người làm quy hoạch.

Nông nghiệp nông thôn mới ngoại thành thành phố Hà Nội đã có khá nhiều cải tiến từ bộ mặt, tư duy sản xuất, biến đổi cơ cấu sản xuất, bước đầu tiên nâng cao chất lượng sống… song thử thách trước mắt còn nhiều, rất cần phải có những phương pháp phù hợp mà bước tới cần làm là công tác quy hoạch.

Bài viết nằm ở trong những tham luận tham gia Hội thảo: “Phát triển Nông nghiệp ven đô nội đô hoá”

tiến sĩ. KTS. Đào Ngọc Nghiêm – —
© TCKT

Thêm nhiều thông tin hấp dẫn với BdsNhaDat.com.vn



T.H

Tham gia thảo luận

So Sánh BĐS

So sánh