Kiến trúc cộng sinh với thiên nhiên (Nhìn từ sự phát triển của Tp Đà Nẵng) ❗


Đặt vấn đề

Phát triển kinh tế và đô thị hóa là hai mặt của một vấn đề. Quá trình đô thị hóa là 1 quá trình rộng mở đô thị trên cơ sở tiêu thụ nguồn tài nguyên thiên nhiên không tái hiện là đất đai, rừng, sông… ảnh hưởng mạnh tới sự cân bằng của môi trường đã tồn tại từ rất nhiều năm ngoái. Nếu mà cái giá của sự đi lên là những ảnh hưởng tổn thất tới hệ sinh thái sống của con người và muôn loài thì sự đi lên đó có ý nghĩa không? – Chắc sẽ là không, vì chính những người lãnh đạo quốc gia cũng thể hiện rõ ý kiến “Không đánh đổi kinh tế lấy hệ sinh thái”.

Hình 1 : Sơ đồ thể hiện vai trò của KTCQ trong phát triển kinh tế

Kiến trúc phong cảnh (KTCQ) là 1 lĩnh vực khoa học và nghệ thuật, liên quan tới nhiều chuyên ngành, trong đó liên quan tới hệ thống các không gian mở, trên đó tồn tại nhiều hệ thống tự nhiên, nhân tạo và văn hóa xen lẫn với nhau. Vì vậy, việc lựa chọn lựa một mô hình tổ chức KTCQ hợp lí sẽ góp thêm phần tiết giảm các bất đồng ra đời trong tiến trình phát triển. Phải tìm ra một con đường phát triển vững chắc hơn, trong đó sự đi lên kinh tế sẽ đồng thời là bảo vệ tài nguyên, hệ sinh thái – Đó cũng là động lực để phát triển kinh tế.

Từ những vấn đề nêu trên, mô hình phát triển KTCQ của Đà Nẵng sẽ nên theo xu thế nào? Làm sao để hiện thực hóa mô hình phát triển đó trong hoàn cảnh hiện tại. Để làm rõ được những mục đích trên, chúng ta cần nhìn nhận sự đi lên kiến trúc cũng như KTCQ trên ý kiến hệ thống, nghĩa là kiến trúc và KTCQ của Đà Nẵng cần được xem như 1 thành phần của hệ thống phát triển, do vậy vấn đề phát triển kiến trúc và KTCQ phải được đặt trong hoàn cảnh của sự đi lên chung, cũng như trong hoàn cảnh của lịch sử phát triển từ quá khứ đến hiện nay và tương lai

Kiến trúc cộng sinh (symbiosis) và mối liên hệ với KTCQ

Trong tự nhiên luôn tồn tại các quy luật phát triển thích hợp với mỗi bối cảnh nhất định. Trong hệ thống tự nhiên tồn tại các mô hình ký sinh, cộng sinh… mang các đặc tính loại bỏ nhau hoặc cùng phát triển (win-win). Điều ấy cũng đúng với xã hội của chúng ta. Tại những khu vực phong cảnh nghèo nàn, bạn có thể chọn lựa mô hình tạo thành những phong cảnh mới, song tại những khu vực phong cảnh thiên nhiên phong phú, đa dạng… chúng ta nên chọn mô hình phát triển kiểu cộng sinh. Đây có thể sẽ là mô hình phát triển KTCQ thích hợp với thành phố Đà Nẵng.

1. Lý thuyết kiến trúc cộng sinh

Quan hệ cộng sinh gồm có các mối liên hệ mà trong đó một nhân tố, sự vật tồn tại trên một nhân tố, sự vật khác, hoặc nơi mà một nhân tố, sự vật cộng sinh tồn tại phía bên trong một nhân tố hoặc sự vật khác. Cộng sinh cũng được phân loại theo kiểu liên kết vật lý của những nhân tố, sự vật; sự cộng sinh mà trong đó các nhân tố/sự vật hợp thành một thể thống nhất gọi là cộng sinh tiếp cận, và sự cộng sinh mà trong đó chúng không phối hợp thành một thân thể thống nhất gọi là cộng sinh không liên kết. Nếu trong sinh học, cộng sinh là 1 trong các động lực tạo nên sự tiến hóa, thì trong xã hội nhân loại, sự cộng sinh là 1 trong các động lực cho sự đi lên.

Một trong các nhà trí thức đã quan tâm đến vấn đề này là Arthur Koestler – người đã đề ra khái niệm “holon”.

Sự xuất hiện của học thuyết cộng sinh trong kiến trúc được khởi đầu bằng sự sinh ra của trào lưu Biến hóa luận (metabolism) ở Nhật Bản những năm 1960. Kurokawa là người đã nắm giữ được thực chất thực của Biến hóa luận, ông đã áp dụng các nguyên tắc linh động của tư tưởng Phật giáo, diễn tả các “vòng đời” của những công trình kiến trúc trong cái chu kỳ vô tận của sự sinh sinh – hóa hóa mà Phật giáo xem là một nguyên lý bất diệt.

Hình 2 . Phong cảnh Sông Hàn (ảnh: KTS Nguyễn Phú Đức)

Kurokawa không chủ trương thuần túy tính năng, ông thường để tâm đến những không gian đa nghĩa, không gian hư ảo, và ông cho rằng những vùng này là khâu quá độ cho phép triển khai những sự cộng sinh. Kurokawa đã phê phán phong trào modern hiện đại (dù rằng không nhận mình là 1 nhà nghiên cứu Hậu modern hiện đại). Nếu áp dụng lý thuyết này thì rõ nét việc chúng ta đang thay thế rừng nguyên sinh bằng rừng trồng…. Đây chính là sự ảnh hưởng tiêu cực đối với tự nhiên. Chính vì sự phong phú sinh học đã làm ra giá trị của khu rừng nguyên sinh, giống như vậy, tính đa văn hóa, nhiều chức năng, phong phú xã hội, cộng đồng… cũng sẽ là nhân tố quan trọng làm ra giá trị của một không gian sinh sống như thành phố.

Kurokawa gọi triết lý của mình là “cộng sinh”, đồng nghĩa với hoà trộn những gì vốn tương phản với nhau như giữa tính địa phương và tính toàn thế giới, giữa môi trường thiên nhiên và không gian modern hiện đại. Như vậy, kiến trúc cộng sinh, có nghĩa là sự hòa quyện vào nhau của những hệ thống và các thành phần không giống nhau, bổ sung và biến hóa cho nhau trong tầm đời của mình.
Thời nay, người ta đã nói nhiều tới các đô thị nông nghiệp, “Thành phố cộng sinh“ (Symbiosis City) như 1 mô tạo thành phố hợp nhất giữa thành thị và nông thôn, vừa có công dụng tăng khả năng kết nối vững chắc giữa con người với thiên nhiên. Những thành phố lọt được vào tiêu chuẩn thành phố đáng sống đều đang có 1 mô hình phát triển không gian cộng sinh như thế

Nhìn chung, các xu thế kiến trúc đều là sự phản ánh của những đặc thù kinh tế, xã hội. Kiến trúc modern hiện đại bùng nổ và thành công trong giai đoạn công nghiệp hóa, còn hậu modern hiện đại sinh ra và phát triển trên ý kiến không chấp thuận sự tình cờ đối với văn hóa và hệ sinh thái của kiến trúc modern hiện đại. Các lý thuyết về biến hóa luận (metabolism) và cộng sinh (symbiotic) đã sinh ra trong hoàn cảnh môi trường thiên nhiên và xã hội đã phải chịu nhiều ảnh hưởng đáng tiếc. Sự đi lên công nghiệp đã đưa tới nhiều của cải vật chất hơn, nhưng lại đang làm nghèo đi những giá trị văn hóa, tinh thần, sự phong phú sinh học của tự nhiên. Con người đang tìm tới với các mô hình phát triển kiến trúc vững chắc hơn, và 1 trong những mô hình đấy là sự sinh ra và phát triển của kiến trúc cộng sinh.

2. Kiến trúc phong cảnh cộng sinh (KTCQCS)

KTCQ là 1 lĩnh vực đa ngành có liên quan tới nhiều chuyên ngành không giống nhau như quy hoạch không gian, quy hoạch hạ tầng kỹ thuật, hệ sinh thái sinh thái, địa lý, tâm lý hệ sinh thái, thiết kế mỹ thuật công nghiệp, nghiên cứu thổ nhưỡng, kiến trúc, mỹ thuật, thực vật học, làm vườn,…

Mục đích của KTCQ là tạo thành hệ sinh thái không gian vui chơi, giải trí, cải thiện hệ sinh thái sống và nâng cao chất lượng thẩm mỹ không gian sinh sống, tạo thành mối liên hệ hài hòa giữa kiến trúc – con người – thiên nhiên. Mặc dù thế, nếu trước đó chúng ta hiểu “sự hài hòa” là mối liên hệ tổng thể đạt được trong những mối liên hệ về tính năng, thẩm mỹ… thì chưa đủ, mối liên hệ đó phải là mối liên hệ công sinh, hài hòa trong cả những mối liên hệ đối lập, trong những mối liên hệ về sinh thái, hệ sinh thái theo quy luật tự nhiên cùng phát triển. Tổ chức KTCQ đô thị không phải là 1 quá trình tĩnh, nó luôn phát triển và chuyển đổi theo thời gian, do vậy, việc nghiên cứu mô hình tổ chức KTCQ cộng sinh, nghĩa là tạo thành một mô hình KTCQ phát triển, chuyển đổi theo thời gian, thích hợp với sự chuyển đổi của môi trường thiên nhiên, và cộng sinh với chính hệ sinh thái đó.

Hình 3 sơ đồ phát triển KT và KTCQ cộng sinh

KTCQ gồm hai lĩnh vực chuyên sâu là: Quy hoạch phong cảnh, giải quyết các vấn đề tổng thể từ các điểm cư dân nông thôn, đô thị và to hơn; thiết kế không gian cảnh quan, giải quyết các vấn đề chi tiết hơn của không gian vây quanh quần thể công trình hoặc công trình kiến trúc. Quan trọng đặc biệt là cả hai đều liên quan khăng khít tới quy hoạch sử dụng đất và sử dụng đất vững chắc, do vậy KTCQ có vai trò rất quan trọng trong tổ chức không gian kiến trúc đô thị, nhất là các đô thị có khá nhiều phong cảnh thiên nhiên, danh thắng có giá trị cao.
Bất kì một nhiệm vụ nào của KTCQ cũng đều liên quan tới mối liên hệ giữa những nhân tố nhân tạo và tự nhiên. Đây là 1 quan hệ có tính bất đồng, do vậy nếu như không đạt được sự hài hòa, sự đi lên theo hướng cộng sinh, sự thay đổi sẽ ảnh hưởng lệch sang hướng tiêu cực, phủ nhận lẫn nhau tạo thành quá trình phát triển không vững chắc.

Việc chọn lựa ý tưởng cộng sinh của Kurokawa vào trong lĩnh vực KTCQ, có thể được xem là một phương pháp cho vấn đè nêu trên. Mặc dầu giai đoạn đầu KTCS được thể hiện nhiều nhất qua các công trình kiến trúc của Kurokawa, vì ở đấy ông đã tích hợp được các nhân tố văn hóa, lịch sử cũng như thiên nhiên vào trong những công trình của mình. Các công trình có thể thay đổi tính năng và thích nghi cùng sự thay đổi và phát triển.

Sự đi lên của kiến trúc cộng sinh, đồng thời cũng ảnh hưởng tới KTCQ theo hướng phát triển vững chắc. Từ địa điểm thụ động đồng ý các phương pháp tổ chức KTCQ theo ý tưởng kiến trúc của chuyên gia thiết kế, giúp hoàn thiện không gian quanh công trình có chất lượng sử dụng và thẩm mỹ tốt hơn, tới hiện nay, đã thành địa thế chủ động, quyết định các đặc thù sử dụng đất, tính chất của những tính năng phong cảnh, hình thái công trình kiến trúc… với vai trò là 1 bộ phận quan trọng trong tổng thể hệ thống cảnh quan không gian đô thị cũng như nông thôn.

Thời nay, phong cảnh tự nhiên là 1 nhân tố có giá trị đặc biệt về thẩm mỹ, hệ sinh thái sống và nhất là một phương tiện giúp con người thích ứng cũng như đối phó với những ảnh hưởng xấu của chuyển đổi khí hậu. Sự tồn tại của phong cảnh có những mối liên hệ khách quan trong hệ thống phong cảnh và phong cảnh sinh thái, bên phía ngoài ước muốn chủ quan của con người, do vậy việc khai thác phong cảnh tự nhiên yêu sách 1 cách tiếp xúc vững chắc hơn, khôn khéo hơn nhằm sử dụng hiệu quả các tài nguyên được thiên nhiên ban tặng. KTCQ là 1 mối liên hệ nhiều mặt giữa những không gian xây dựng và không gian tự nhiên, do vậy việc kiếm tìm một mô hình công sinh giữa hai loại hình không gian đối lập nhau này là 1 vấn đề quan trọng của phát triển đô thị vững chắc, đặc biệt khi các đô thị của chúng ta đang trong giai đoạn phát triển mạnh

Phong cảnh tự nhiên là 1 bộ phận của địa cầu, những gì chúng ta quan sát thấy chỉ đơn giản là mặt nổi của cảnh trí bên phía ngoài một hệ sinh thái sống với các quan hệ rắc rối phức tạp, lệ thuộc lẫn nhau của những thành phần vô sinh và hữu sinh trong phong cảnh đó. Những ảnh hưởng của con người vào phong cảnh, nhằm cải tạo hệ sinh thái sống của mình, không quan tâm tới các mối liên hệ khác trong hệ thống, sẽ làm mất cân bằng hệ thống, dẫn đến những hậu quả không thể sửa chữa mai đây.

Sinh thái phong cảnh là 1 lĩnh vực nghiên cứu của phong cảnh tự nhiên, quan tâm thâm thúy tới các mối liên hệ giữa những thành phần phong cảnh trong cấu trúc của hệ thống, do vậy nó đã thành công cụ cho KTCQ cộng sinh, giúp các ảnh hưởng phát triển của con người trở nên vững chắc hơn. Sinh thái phong cảnh đặc biệt quan trọng ngay từ giai đoạn quyết định và quản lý sử dụng đất đai, kế đấy là các phương pháp quy hoạch không gian KTCQ, không gian kiến trúc… theo hướng tiết giảm các ảnh hưởng xấu tới các nhân tố cấu thành phong cảnh trong hệ thống

Các nguyên tắc sinh thái phong cảnh đã được trình bày trong tác phẩm khoa học của Dramstad W.E. (author), J.D. Olson, R.T.T. Forman (1996). “Landscape Ecology Principles in Landscape Architecture and Land-use Planning.” Island Press, 1996. Trong đó rất đáng chú ý các nguyên tắc về phân mảnh khu vực phong cảnh tự nhiên, nguyên tắc chọn lựa sự ưu tiên cho tính chất phong cảnh, bảo vệ các phong cảnh tự nhiên đặc thù hiếm thấy, bảo vệ khả năng gắn kết giữa những vùng phong cảnh, cân bằng nhu cầu phát triển của con người với hệ thống sinh học trong phong cảnh. Những nguyên tắc nêu trên được tôn trọng sẽ bảo đảm cho sự công sinh của không gian xây dựng với không gian tự nhiên, và đó cũng là KTCQ cộng sinh

KTCQ Tp Đà Nẵng nhìn từ khía cạnh KTCQ cộng sinh

KTCQ TP Đà Nẵng đang thay đổi mau chóng từng ngày sau thời điểm những nhà đầu tư lớn, sách lược đã có mặt tại TP biển xinh đẹp này. Sự đi lên mau chóng của thành phố về mọi mặt là sức lực của nhà đầu tư và của lãnh đạo TP. Phong cảnh TP đang thay đổi theo hướng modern hiện đại, năng động và phong phú hóa với rất nhiều tính năng phong cảnh mới. Nhưng nếu nhìn nhận theo các ích lợi dài hạn trong tương lai, Đà Nẵng cũng đang có những biểu hiện bất cập trong việc sử dụng tài nguyên thiếu vững chắc

Trong sơ đồ xác định phương hướng phát triển không gian KTCQ của Đà Nẵng đến năm 2030, phong cảnh toàn TP được chia ra 5 vùng phong cảnh, chủ yếu dựa trên sự đi lên các khu vực tính năng, chưa coi trọng tới tính gắn kết hệ thống của những thành phần phong cảnh trong những vùng phong cảnh và giữa những vùng phong cảnh với nhau kinh qua sự tạo thành các trục và tuyến phong cảnh, trong đó các điểm ấn tượng phong cảnh sẽ phải được trông thấy trên trục này.

Trong tương đối nhiều nghiên cứu về Đà Nẵng (các luận án Tiến sĩ, các dự án…) đều cho rằng KTCQ của Đà Nẵng phải phát triển trên cơ sở khung tự nhiên là Núi – Sông – Biển. Mặc dù thế, trên thực tiễn các cơ sở đó chỉ được khai thác bởi các dự án biệt lập với các mục đích về doanh thu được bởi các nhà đầu tư, do vậy hệ thống khung này rất khó có thể giữ được nếu không nhận được các phương pháp quản lý thích hợp.

Xét về phương diện xã hội, khu vực nào có khả năng sinh lợi cao, thì khu vực đó sẽ có vận tốc xây dựng nhanh và khó kiểm soát nhất, nhất là tại các khu vực lõi của trung tâm, khu vực có hạ tầng đô thị phát triển và các khu vực có phong cảnh tự nhiên độc đáo.

Hình 4 Sơ đồ hệ thống khung thiên nhiên làm cơ sở cho KTCQ cộng sinh của Đà Nẵng

Trước tiên, nếu chúng ta suy xét các khu vực sát biển và ven sông sẽ dễ dàng nhận ra sự thiếu hụt của những không gian mở công cộng (không kể những công viên giải trí thu phí của những nhà đầu tư), Hình ảnh về KTCQ mạnh mẽ nhất tại không gian sát biển là hệ thống các hotel nhiều tầng tạo ra một bức tường lớn bao phủ phần không gian còn lại nằm phía trong. Tỷ lệ xây dựng cao dọc tuyến đang tạo ra sự tương phản đối lập giữa phong cảnh tự nhiên và nhân tạo. Sự lấn át này sẽ dần ảnh hưởng xấu tới hệ thống khung tự nhiên. Để tránh những ảnh hưởng này, tại nhiều TP sát biển đã dùng kiểu quy hoạch dạng túi, trong đó các công trình hotel đơn lẻ được tổ hợp với nhau quanh một quảng trường biển, quanh một công viên hoặc vườn hoa… điều ấy cho phép giảm tỷ lệ xây dựng ven sông, sát biển, tạo thành một cảnh quan không gian chuyển tiếp giữa không gian xây dựng với phong cảnh tự nhiên. Bên cạnh đó sự có mặt của những không gian mở bên cạnh không gian xây dựng sẽ tạo thành các tầm nhìn kết nối các vùng phong cảnh với nhau

Hiện tại, tuyến sát biển Đà Nẵng chủ yếu mới chỉ phát triển tại khu vực quận Sơn Trà và Mỹ Khê, tất cả tuyến sát biển thuộc Liên Chiểu đang trong tiến trình phát triển, đó cũng chính là thời cơ để chúng ta có các phương pháp phát triển KTCQ sát biển theo hướng vững chắc hơn. Mặt khác đây cũng chính là trục phong cảnh sát biển với điểm ấn tượng là bán đảo Sơn Trà, và cũng có thể tạo thành các vùng phong cảnh trũng (công viên, quảng trường, vườn hoa, phố đi dạo, tuyến phố ngang…) kết nối dãy núi phía Tây với dải bãi biển phía Đông của TP.

Về phía Tây của bãi biển Đà Nẵng là sông Hàn với đầu phía Bắc đổ ra biển tại khu vực cầu Thuận Phước và phía Nam được phân thành nhiều nhánh tại khu vực quận Cẩm Lệ và Ngũ Hành Sơn. Đây là trục phong cảnh thứ hai quan trọng của Đà Nẵng. Nhìn chung KTCQ khu vực trung tâm đã phát triển rất mạnh, hành lang bảo vệ sinh thái ven sông dường như không còn. Tất cả khu vực đã bị kè cứng, không còn không gian chuyển tiếp giữa sông – phong cảnh tự nhiên với các công trình kiến trúc ven sông. Đoạn chân cầu Rồng sát sông cũng đang tạo thành một khu ở villa cao cấp, thu nhỏ thêm không gian công cộng ven sông. Điều ấy cũng hoàn toàn thích hợp với quy luật thị trường và chắc chắn sẽ mang lại những ích lợi nhất định trong thời gian ngắn. Mặc dù thế, nếu những đoạn sông và nhánh sông còn lại cũng bị xây dựng như thế, sẽ làm tác động nhiều tới môi trường ven sông, góp thêm phần làm bức tốc độ dòng chảy của sông qua khu vực trung tâm, dẫn đến những hậu quả không thể lường trước dưới ảnh hưởng của chuyển đổi khí hậu. Để tránh những bất cập nêu trên, cần đẩy mạnh các không gian mở sinh thái lưu vực sông gần trung tâm, tạo thành các khu vực phong cảnh ngập nước, tạo thành các công viên sinh thái phong phú phối hợp nghỉ ngơi giải trí cho những người dân đô thị. Các không gian mở ngập nước khi có mưa lớn, sẽ trở thành các lưu vực chứa nước, giảm lượng nước tăng nhanh tức thời cho khu vực trung tâm đô thị, làm giảm nguy cơ ngập lụt các khu vực trong TP.

Như vậy, trục phong cảnh sông Hàn sẽ có khu vực phong cảnh ven sông giảm dần mức độ bê tông hóa từ phía Bắc xuống phía Nam. KTCQ sinh thái sẽ chiếm lợi thế ở phía đầu nguồn. Các công trình kiến trúc nhiều tầng , xây dựng tỷ lệ cao có thể ở khu vực lõi, trung tâm, tiếp nối giảm dần tỷ lệ xây dựng và chiều cao về phía cửa biển và về phía Nam – thượng lưu sông, tạo thành các KĐT nén, nhằm giải phóng S diện tích đất cho hệ thống sinh thái tự nhiên.

Việc tạo thành các KĐT, cần phải có sự kết nối với các khu vực tính năng cũng như phong cảnh tự nhiên của toàn đô thị, tránh việc tạo thành các KĐT khép kín, chỉ nhằm cung ứng các dịch vụ thương mại, giải trí, hệ sinh thái cho người dân của mỗi KĐT. Cách làm này tạo điều kiện thuận tiện cho quản lý, nhưng dễ tạo thành các KĐT nội đô, tồn tại cục bộ, thiếu kết nối với nhau và với đô thị, làm mất đi tính hệ thống, tính toàn vẹn của đô thị, không phát huy được hiệu quả của hệ thống các không gian mở nội đô, tác động tới chất lượng KTCQ chung và chất lượng sống của cộng đồng toàn thành phố.

Hình 5 các sơ đồ phân tích các đặc thù của nước và dòng chảy làm cơ sở cho những quyết định sử dụng đất trong phát triển KTCQ đô thị
(Dự án: Sống với nước Vị trí: New Orleans, LA Công ty: Waggonner & Ball Năm 2008-2013)

Dọc các trục phong cảnh ven sông, sát biển là hệ thống các tuyến giao thông kết nối các khu vực tính năng của thành phố, cho phép quan sát liên tiếp các khu vực phong cảnh dọc tuyến, tạo nên sự liên lạc giữa những khu vực phong cảnh với nhau, tạo nên sự liên tưởng hình ảnh KTCQ toàn tuyến, giúp tạo thành bản sắc đặc thù của thành phố

Các gắn kết ngang, được tạo thành kinh qua các tuyến thị giác kết nối các nhân tố tự nhiên núi – sông – biển nhờ các điểm quan sát trên cao hoặc các điểm quan sát thấp xuyên thẳng qua các vùng trũng (khu cư dân tỷ lệ thấp, vùng ngập nước, công viên…). Từ đấy cho thấy khi xây dựng các công trình, cần quan tâm tới những ưu thế do các vùng “ trũng” mang lại để tạo thành các tuyến thị giác đưa hình ảnh thiên nhiên vào nội đô, cũng như kết nối các nhân tố tự nhiên thành một khung thiên nhiên cho Đà Nẵng.

Từ những phân tích và cơ sở lý luận về KTCS, cũng như STCQ nêu trên, cho thấy Xu thế phát triển không gian KTCQ của Đà Nẵng có thể là những công trình kiến trúc modern hiện đại, những tổ hợp công trình nhiều tầng vươn lên mạnh mẽ trên bầu trời thành phố, nhưng cũng nên quan tâm tới sự tạo thành những vùng “trũng”, những khu vực xây dựng tỷ lệ thấp đan xen 1 cách hài hòa với không gian xây dựng. Điều ấy không những quan trọng cho sự công sinh giữa không gian nhân tạo với tự nhiên, mà còn là sự cộng sinh bình đẵng giữa những quần chúng trong xã hội và tạo điều kiện tạo thành các khoảng không gian mở kết nối với nhau, cho phép quan sát và kết nối các thành phần phong cảnh tạo thành phong cảnh và tiếp nối là sự kết nối các khu vực phong cảnh, giúp tạo thành phong cảnh tổng thể của thành phố mang bản sắc văn hóa, thẩm mỹ và hệ sinh thái vững chắc

Kết luận

Kiến trúc cộng sinh, kiến trúc sinh thái là các cơ sở giúp tạo thành KTCQ cộng sinh. Đây cũng chính là xu thế của kiến trúc vững chắc trong thế kỷ 21. Trong đó các thành phần cấu thành được gắn kết với nhau trong một hệ thống, và cùng vận động, chuyển đổi theo thời gian. Và tính chất quan trọng của sự cộng sinh là khả năng chuyển đổi thích hợp với hệ sinh thái và các đặc thù phát triển của từng khu vực, tạo thành trạng thái vững chắc. Cho tới khi có những thay cải tiến, cả hệ thống cũng sẽ sẵn sàng chuyển đổi để thích nghi.

Cơ sở lý luận nêu trên, các thành phần cấu thành nên phân chia ra 3 loại là thành phần bất biến, thay đổi hạn chế và được phép thay đổi, tiếp nối nghiên cứu mối liên hệ cộng sinh giữa những thành phần để tạo thành hệ thống. Tựa vào các phân tích đó để đề ra các phương pháp phát triển

Đà Nẵng là 1 đô thị có môi trường sông -núi-biển tạo thành một khung tự nhiên cho thành phố, do vậy việc tổ chức KTCQ cho Đà Nẵng nên thay đổi ý kiến cho những phương pháp KTCQ theo hướng coi các nhân tố tự nhiên là 1 loại tài nguyên quan trọng dành riêng cho sự đi lên, nghĩa là chúng ta cần chọn lựa sự ưu tiên thực sự cho những nhân tố tự nhiên.
Hệ thống thiên nhiên thường được xem là viên ngọc quý, có giá trị không thể thay đổi, theo đó thì mọi hoạt động phát triển KTCQ phải mang tính tổng thể, tính hệ thống để kết quả của sự đi lên không những không làm mất đi nét đẹp của tự nhiên mà còn khiến cho nét đẹp đó được bộc lộ nổi trội hơn trong đặc thù KTCQ của Đà Nẵng.

Để minh họa cho những vấn đề nêu trên, có thể lấy một chẳng hạn về một dự án KTCQ ven sông với tên thường gọi là “ Living with water “ , (Dự án: Sống với nước . Vị trí: New Orleans, LA Công ty: Waggonner & Ball , Năm: 2008-2010; bên cạnh con sông Mississippi, với ý kiến thay đổi mạnh mẽ từ dự định lúc đầu sử dụng phương pháp công nghệ và kỹ thuật để khống chế, đối phó với nước, ngập lụt, sang phương pháp coi nước là 1 tài nguyên tự nhiên cần bảo vệ. Đây được xem là một phương pháp quan trọng của KTCQ nhằm thích ứng với sự chuyển đổi khí hậu của địa phương. Các nhà quy hoạch Hà Lan và Mỹ và các nhà thiết kế đô thị, KTS thiết kế , kỹ sư, và các chuyên gia về đất và thủy văn cũng giống như các cơ quan và trường ĐH đã có khá nhiều cuộc hội thảo để đi tới những quyết định cụ thể. Các nghiên cứu không những khám phá tiềm năng biến đổi sử dụng đất bằng phương pháp tập trung ưu tiên vào nước – chủ yếu là nước mưa, nước mặt và nước ngầm, mà còn đưa tới một tầm nhìn mới để quản lý các tài nguyên nước đồng thời giải quyết lũ lụt phù sa, sụt lún và lạm dụng tài nguyên nước trong khu vực. Dự án phác thảo ra các nguyên tắc để quản lý nước, quy hoạch vùng và thiết kế đô thị, qua đó tạo thành quy trình suy xét các loại thổ nhưỡng địa phương, nước và phong phú sinh học; mạng lưới cơ sở hạ tầng hiện có; Năm nguyên tắc cốt lõi của Sống với nước là: Làm chậm và lưu trữ nước mưa; Lưu thông và nạp lại nước mặt và nước ngầm; Xây dựng với thiên nhiên; Thiết kế thích ứng với chuyển đổi khí hậu.

Những nguyên tắc này đã cụ thể hóa phương pháp KTCQ cộng sinh nhắm đến việc xây dựng một thành phố vững chắc

Tài liệu tham khảo
1. Dramstad W.E. (author), J.D. Olson, R.T.T. Forman, Landscape Ecology Principles in Landscape Architecture and Land-use Planning, NXB Island Press, 1996.
2. Architects View, Sự cộng sinh và kiến trúc, xuất bản năm 2010
3. Leading architechture &design
4. Landscape design: Water, NXB Pageone 2006
5. Trang website 2011-2013 : www.wbarchitects.com
6. Trang website dự án: http://livingwithwater.com/


PGS.tiến sĩ Nguyễn Nam

(Bài đăng trên TCKT số 05-2019)

Thêm nhiều thông tin hấp dẫn với BdsNhaDat.com.vn



T.H

Tham gia thảo luận

So Sánh BĐS

So sánh