Quá trình phát triển và những nguyên tắc cơ bản trong việc Quy hoạch cải tạo khu vực đất ven sông ❗


Từ thời trước, vùng đất ven sông luôn là vị trí lý tưởng để các nhà quy hoạch chọn lựa xây dựng đô thị, do ưu thế về nguồn nước, giao thông và địa điểm phòng thủ. Cho tới thời nay, ưu thế về địa điểm bên sông vẫn chính là nguồn lực tiềm năng thúc đẩy sự tiến lên mạnh mẽ của những đô thị và siêu đô thị thời modern hiện đại. Năm 1950, siêu đô thị trước tiên xuất hiện trên thế giới – thành phố NewYork – nằm ngay bên bờ dòng sông Hudson khởi nguồn từ hồ Tear. Năm 1960, thành phố Tokyo phát triển bên bờ sông Arakawa đạt hiệu suất 10 triệu dân và trở thành siêu đô thị thứ hai trên thế giới. Tiếp đến, các siêu đô thị khác lần lượt được tạo thành như Moscow, Paris- Ile-de-France, Delhi, Istanbul, Osaka, Thượng Hải, Cairo… Chúng có 1 đặc thù chung là đều quy hoạch các dòng sông lớn vào trong lòng của đô thị.

Có thể nói rằng, khu vực đất ven sông là khu vực rất có giá trị về mặt kinh tế – xã hội, là 1 vị trí thuận tiện để phát triển các công năng nhà ở, giải trí, nghỉ dưỡng, phong cảnh đối với đô thị. Vùng đất ven sông tại các vùng đô thị lớn, siêu đô thị với mức độ đô thị hóa cao đang là vị trí lôi cuốn đối với các nhà đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp, nhà ở, giải trí, nghỉ dưỡng, kho bãi, giao thông. Hiện tại, rất là nhiều đô thị lớn trên thế giới đang coi vùng đất ven sông là 1 tiềm năng dự trữ phát triển của đô thị.

Khái niệm về vùng đất ven sông và cách định rõ ranh giới của chúng

Vùng đất nằm dọc 2 bên bờ sông được định nghĩa không giống nhau trong những nghiên cứu của những nhà quy hoạch đô thị. Chúng có thể gọi “đất bờ sông”, “khu vực đất ven sông” hay “không gian dọc sông”. Những chúng sẽ có chiều rộng và ranh giới không giống nhau. Rất là nhiều nhà quy hoạch, KTS đã đề ra định nghĩa về khu vực đất nằm dọc 2 bên bờ sông.

Theo GS.tiến sĩ.KTS Basakov A.G thì “đất bờ sông” là 1 loại hình đặc biệt của không gian mở thành phố. Nó có cấu trúc dạng dải, tiếp cận với nhân tố mặt nước sông và có các thành phần sau trong cấu trúc của chính nó: a) công trình bảo vệ bờ sông; b) đường cây cối đi dạo; c) đường, phố đi lại; d) mặt tiền của những công trình với công năng công cộng – vui chơi và nhà ở.

Đối với tiến sĩ.KTS Litvinnov D.B thì “Khu vực ven sông” là dải đất đã được đô thị hóa, có phong cảnh tự nhiên và được sử dụng như: 1) công năng căn bản trong cấu trúc đô thị; 2) như 1 phần của tổng thể quy hoạch đô thị, cũng như là khu vực giao thông đối nội, đối ngoại; 3) như khu vực có tiềm năng động lực phát triển mạnh về mặt công năng; 4) như khu vực nghỉ dưỡng của người dân đô thị với tỷ lệ cao theo mùa; 5) như khu vực phong phú về mặt công trình kiến trúc; 6) như khu vực cần phải có giải pháp đặc biệt đối với việc xây dựng và bảo vệ sinh thái.

Các nhân tố tham dự trong việc định rõ ranh giới khu vực đất ven sông (Nguồn: tác giả)

tiến sĩ.KTS Lesnov O.V lại định nghĩa “Đất khu vực ven sông” là tổng thể khu vực đất tự nhiên; khu vực có ảnh hưởng tích cực qua lại giữa nhân tố nước và đất ven bờ.

Trong luận án TS của GS.TSKH Ocenko N.E năm 2001, dựa trên các nghiên cứu về khu vực đất ven sông của những thành phố lớn như Moscow, Paris, Berlin, Rim, Budapest, Praha…, ranh giới và kích thước của chúng được định rõ bởi 2 nhân tố:

  • Nhân tố tự nhiên: Gồm có điều kiện địa điểm địa lý tự nhiên và điều kiện địa hình tự nhiên.
  • Nhân tố quy hoạch: Công năng đồng hóa của khu vực đất ven sông và cấu trúc xây dựng đô thị.

Theo GS.TSKH.KTS Ocenko N.E nếu có tính tới nhân tố, đặc thù địa hình tự nhiên thì có thể chia khu vực đất ven sông thành 2 loại:

  • Loại đầu tiên: Khi ranh giới của khu vực đất ven sông đi chuẩn xác trùng với các tuyến giao thông đường bộ, tuyến phố sắt, ranh giới các khu vực công năng và ranh giới xuyên qua các điểm cao của địa hình khu vực. Thay mặt đại diện cho loại này là khu vực đất ven sông tại các thành phố: Moscow, Paris, Berlin, bờ trái sông thành phố Budapest.
  • Loại thứ hai: Ranh giới dạng chia cắt. Loại này thường bắt gặp tại các thành phố địa hình nhấp nhô, đồi núi, khe vực và các thiết kế quy hoạch của thành phố tuân theo đặc thù địa hình.

Tổng hợp nghiên cứu các cách định rõ ranh giới của khá nhiều nhà nghiên cứu quy hoạch, trong quyển sách “Vùng đất ven sông: Các nguyên tắc, phương hướng và giải pháp cải tạo phát triển” xuất bản năm 2012, tác giả đã đề ra các nhân tố nhằm định rõ được ranh giới khu vực đất ven sông. Việc định rõ ranh giới này buộc phải dựa trên 3 nhân tố chính, gồm có:

  • Đặc thù địa hình khu vực đất ven sông: Đồi, núi, khe suối, vực…
  • Thực trạng và quy hoạch hạ tầng kỹ thuật đô thị gồm: Các tuyến giao thông đường bộ, đường sắt, các tuyến đê.
  • Ranh giới các khu vực công năng đô thị: Ranh giới khu vực lõi đô thị và ranh giới các khu vực công năng không giống nhau nội đô.

Quá trình lịch sử và xu thế phát triển của những vùng đất ven sông

Hầu như tất cả các thành phố tạo thành bên bờ sông đều kinh qua 2 mức độ (đối với đô thị nằm bên bờ một dòng sông) hoặc 3 mức độ (đối với các đô thị tọa lạc ở ngã 3 sông như Hà Nội) trong quá trình phát triển của đô thị đó. Kết quả sau cuối của cả 2 trường hợp trên đều dẫn đến việc dòng sông sẽ nằm trọn trong lòng đô thị [2].

Quá trình phát triển về quy mô của những thành phố bên sông

Nghiên cứu quá trình khai thác, sử dụng khu vực đất ven sông của những nước trên thế giới trong lịch sử có thể giúp đề ra 4 giai đoạn phát triển chính của khu vực đất này, tương ứng với 4 thời kỳ. Chúng gồm [1]:

  • Giai đoạn I – Trước thời kỳ công nghiệp (trước thế kỷ 19): Khu vực đất ven sông được khai thác chủ yếu để xây dựng các bến tàu phục vụ cho mục tiêu giao thương và khu vực nghỉ ngơi công cộng cho quần chúng đô thị. Điển hình như tại các thành phố HongKong, Amsterdam, Sydney. Các khu vực như thế đã được tạo thành từ đầu thế kỷ 18.
  • Giai đoạn II- Thời kỳ công nghiệp (đầu thế kỷ 19 – giữa thế kỷ 20): Đánh dấu sự xuất hiện với tỷ lệ dầy đặc các khu công nghiệp và khu cảng, kho bãi. Chính các khu vực này đã ngăn cản sự tiếp cận của thành phố với mặt nước sông. Hay nói theo một cách khác, thành phố đã cần phải “quay lưng lại” với dòng sông – trục sắp đặt kiến trúc cảnh quan chính của đô thị.
  • Giai đoạn III – Thời kỳ hậu công nghiệp (giữa thế kỷ 20 – cuối thể kỷ 20): Các khu vực công nghiệp từ từ được di dời, thay vào đấy là các công năng khác dẫn đến việc phát triển công năng phức hợp của khu vực đất ven sông. Thành phố đã “quay mặt lại” với dòng sông kinh qua việc khai thác mạnh mẽ không gian bên bờ sông với những công trình công cộng, hành chánh, vui chơi và giải trí, nghỉ dưỡng…
  • Giai đoạn IV – Thời kỳ modern hiện đại (đầu thế kỷ 21 – phán đoán đến giữa thế kỷ 21): Thúc tăng cường mẽ quá trình cải tạo khu vực đất bên sông, trong đó hướng đến giảm tải các công năng công nghiệp và các nhân tố liên quan đến sản xuất, đẩy mạnh sự kết nối trung tâm thành phố với khu vực mặt nước sông.

Những nguyên tắc căn bản trong quy hoạch các vùng đất ven sông

Để quy hoạch cải tạo được khu vực đất ven sông, ngoài những việc định rõ ranh giới của chúng dựa theo 3 nhân tố chính như đã nêu phía trên thì buộc phải định rõ được mức độ khai thác, sử dụng của từng khu đất trong tổng thể khu vực đất ven sông để có những giải pháp phù hợp.

Khu vực đất ven sông được trải xuôi theo các dòng sông từ vài chục đến cả trăm kilômét (bảng 1). Trên một khoảng dài như thế thì quá trình đô thị hóa diễn ra trên khu vực đất ven sông cũng không thể đồng đều nhau. Mức độ khai thác, sử dụng này phụ thuộc vào tiềm năng của những khu đất trong khu vực đất ven sông, trong đó có tính tới các nhân tố như tiềm năng kinh tế, thực trạng công trình kiến trúc xây dựng, hạ tầng kỹ thuật và điều kiện sinh thái. Dựa trên những nhân tố như thế thì ảnh hưởng của con người lên các khu đất này để cải tạo cũng sẽ không giống nhau.

Công năng sử dụng đất của khu vực đất ven sông qua 4 thời kỳ lịch sử phát triển

Mức độ khai thác, sử dụng của những khu đất trong khu vực đất ven sông sẽ được định rõ bởi 07 nhân tố căn bản sau [1]:

  • S diện tích đất bị ngập lụt;
  • S diện tích đất dự phòng để phát triển;
  • Số lượng và cấp độ của những công trình lịch sử, tượng đài lịch sử;
  • Tỷ lệ dân số;
  • Tỷ lệ xây dựng;
  • Các loại hình công trình xây dựng;
  • Các loại hình công năng sử dụng đất khu vực ven sông.

Bảy nhân tố căn bản nêu trên sẽ giúp các nhà quy hoạch phân chia khu vực đất ven sông thành các khu đất không giống nhau với thực trạng khai thác sử dụng ở các mức độ không giống nhau. Điều ấy rất thuận lợi cho việc sắp đặt công năng và ứng dụng các giải pháp không giống nhau để quy hoạch cải tạo khu vực đất ven sông.

Trong tiến trình đề ra xác định phương hướng và giải pháp cải tạo, phát triển khu vực đất ven sông, 8 nguyên tắc sau đã được tác giả nghiên cứu và đề nghị nhằm tăng tính hiệu quả của việc khai thác khu vực đất đặc biệt này.

1- Nguyên tắc thích nghi với khí hậu địa phương: Nhất thiết cần tích cực sử dụng các nguyên vật liệu tự nhiên của địa phương trong xây dựng khu vực bờ sông, đẩy mạnh các phương pháp trong thiết kế quy hoạch, có tính tới hướng thông gió tự nhiên và bảo vệ khỏi ánh sáng trực tiếp nhờ hệ thống cây cối. Để đẩy mạnh tính thông gió tự nhiên nội đô, thì những đường lớn, tuyến đường chính nên đặt địa điểm nghiêng 30° so với hướng gió chính ảnh hưởng lên đô thị. Nếu các đô thị bỏ lên trên địa hình nghiêng (tối đa 20°) thì việc sắp đặt hệ thống đường phố chính trên độ nghiêng, xuôi theo hướng gió chính có khả năng bức tốc độ gió lên 10-30% so với không gian mở, sẽ hỗ trợ cho đô thị đẩy được phần đa bụi bặm vào ngày.

2- Nguyên tắc rộng mở và chia nhỏ lòng sông thành các nhánh nhỏ: Nguyên tắc này dựa trên hiện tượng vật lý. Nếu mà lòng sông được chia nhỏ thành các kênh đào bé nhiều hơn, thì thể tích nước con sông sẽ được giảm đi và tốc độ dòng chảy theo đó cũng chậm lại. Nguyên tắc này được sử dụng nhiều trong những phương pháp cho thành phố nằm bên các dòng sông có chiều rộng kha khá lớn, tốc độ dòng chảy lớn và thường có lũ.

3- Nguyên tắc công năng phức hợp: Việc phân chia khu vực công năng tùy theo đặc tính của khu vực sông và sự ảnh hưởng qua lại của đô thị với khu vực chung quanh. Phát triển khu vực đất bên sông dựa trên các nguyên tắc: Phát triển theo mô hình chuỗi liên tiếp; khai thác ở cả 3 cấp độ dưới mặt đất, mặt đất và trên bề mặt đất; phân bổ công năng đồng đều trong đó ưu tiên phát triển công năng nhà ở, công cộng và nghỉ dưỡng.

4- Nguyên tắc cấu trúc phân định: Cần tạo nên ranh giới phân định không gian theo mức độ khai thác của con người; theo từng khu vực sẽ tiến hành cải tạo theo thời kỳ; theo cấp độ can thiệp của con người đến các nhân tố tự nhiên của phong cảnh. Không chỉ có vậy nguyên tắc này còn đề cập đến việc tạo ranh giới không gian để tách biệt các công năng không giống nhau mà có đặc thù và cường độ sử dụng không giống nhau, cũng như là các công năng có độ xung khắc cao (khu sản xuất – khu ở, hệ thống đường giao thông – khu đi dạo).

5- Nguyên tắc về tổ chức giao thông:

  • Việc sắp đặt các đường cao tốc, đường lớn (mang tính chất quá cảnh) ở mặt đất thì chớ nên gần hơn 500 m so với mép nước sông, nếu dưới mặt đất thì chớ nên gần quá 100 m so với mép nước sông;
  • Việc sắp đặt các công trình giao thông cần tính đến các yêu cầu về hệ sinh thái;
  • Các tuyến phố sắt hoặc các tuyến phố cao tốc cấp đất nước nên được sắp đặt không gần hơn 1000m so với mép nước sông (có tình cả chiều rộng 50m bảo vệ dọc 2 bên tuyến này).
  • Trên bờ sông nên sắp đặt các bến tàu trở khách ở khoảng cách 1000m/bến.

6- Nguyên tắc tiếp xúc: Bảo đảm khả năng tiếp xúc của cư dân đô thị mà dường như không có bất kì sự cản trở nào từ các tuyến phố giao thông, từ các công trình hạ tầng kỹ thuật hay từ địa hình …

7- Nguyên tắc hướng cải tạo về sinh thái hệ sinh thái: Bảo đảm môi trường cảnh quan trong lành, kiến thiết lại độ cân bằng sinh thái trên các khu vực đã bị đô thị hóa mạnh. Giải quyết các bài toán thực tiễn về sinh thái có liên quan đến hoạt động sản xuất trên khu vực đất bờ sông. Giả dụ như: Di dời các khu sản xuất công nghiệp, ứng dụng các kỹ thuật tiên tiến giúp tiết kiệm tài nguyên và năng lượng, sử dụng các quy trình kỹ thuật không chất thải. Nguyên tắc này sẽ có ý nghĩa xác định phương hướng để khôi phục tài nguyên sinh thái đô thị.

8 – Nguyên tắc tổ chức xác định phương hướng hệ sinh thái xã hội: Ưu tiên suy xét những mối quan tâm của xã hội, giải pháp quy hoạch nhắm tới sự đáp ứng nhu cầu của những tầng lớp xã hội; đề nghị phương hướng cải tạo công năng, trong đó coi trọng đến giải pháp cải tạo nhằm mang đến sự hài hòa giữa công năng khu công nghiệp và khu ở, dẫn đến việc đẩy mạnh mối liên hệ xã hội của 3 khu công năng đô thị căn bản gồm: Khu vực sản xuất – khu vực ở – khu vực nghi dưỡng. Điều này sẽ cho phép nâng cao hiệu quả về mặt hệ sinh thái xã hội của các phương pháp quy hoạch.

Khả năng ứng dụng 08 nguyên tắc trên vào từng trường hợp cụ thể sẽ hỗ trợ chính quyền các đô thị đề ra được phương hướng cải tạo và phát triển khu vực đất ven sông 1 cách rõ nét và hiệu quả.

Tài liệu tham khảo:
– Hà Duy Anh/ Luận án TS: Phương hướng cải tạo và phát triển các vùng đất ven sông/ TP. Saint-Petersburg – năm 2012;
– Hà Duy Anh / Sách: Vùng đất ven sông: các nguyên tắc, phương hướng và giải pháp cải tạo phát triển/ Nhà xuất bản: Academic Publishing – TP. Berlin, năm 2012/ 297 trang;
– Hà Duy Anh/ Bài báo: Tổ chức quy hoạch vùng đất ven sông của những thành phố Seoul, Hồng Kông, Thượng Hải: vấn đề và hướng giải quyết / Báo Vestnik – TP. Saints Peterburg, LB Nga/ số 25- 2010/ trang 28-35;
– Ocenko N.E./ Bài báo: Khu vực đất ven sông/ Báo Xây dựng – TP. Moscow/ Số 04 -2000/ trang 11-13;
– Litvinnov D.B/ Luận án TS: Nguyên tắc phát triển sinh thái đô thị của khu vực đất ven sông/ Saint-Petersburg – năm 2009.Lo bla quo vel et adit volore lant.

tiến sĩ.KTS Hà Duy Anh
Cục Phát triển đô thị, Bộ Xây dựng

(Bài đăng trên TCKT số 5/2016)

Thêm nhiều thông tin hấp dẫn với BdsNhaDat.com.vn



T.H

Tham gia thảo luận

So Sánh BĐS

So sánh