Quản lý phát triển kiến trúc nhà ở thấp tầng đô thị trong định hướng phát triển kiến trúc Việt Nam ⭐


Luật kiến trúc đã được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam phát hành ngày 13/06/2019 và có hiệu lực từ 01/07/2020. Để các content nội dung của văn Luật có ý nghĩa này đi vào cuộc sống, theo khuôn khổ luật định, dự thảo Xác định hướng phát triển Kiến trúc Việt Nam cũng đã được biên soạn và dự định sẽ sớm được Chính phủ suy xét phát hành trong khoảng thời gian tới. 1 trong những content nội dung cần nhắm đến để xây dựng sự đi lên vững bền – có bản sắc đô thị và nông thôn chính là hoạch định các xác định phương hướng phát triển kiến trúc cho loại hình nhà ở, nhất là nhà ở thấp tầng nội đô vốn đã có rất nhiều tồn tại từ lịch sử dài lâu. Trên cơ sở nghiên cứu nhận định các thực trạng kiến trúc công trình nhà ở thấp tầng, cập nhật và dự báo các xu thế phát triển nội địa và quốc tế, một vài khuyến cáo khung được kiến nghị về phát triển kiến trúc nhà ở thấp tầng đô thị, trong Xác định hướng phát triển kiến trúc Việt Nam trong những thời gian tới.

Kiến trúc nhà ở thấp tầng đô thị, vẫn còn nhiều thử thách

Tổng quát chung, nhà ở thấp tầng nội đô gồm có 02 nhóm chính. Nhóm nhà ở thấp tầng nội đô hiện hữu gồm có: (1) Nhà ở liền kề cư dân hiện hữu (quy mô S diện tích từ rất nhỏ 25m2 – rất to lớn 200m2, tầng cao phổ biến từ 3 – 5 tầng, cá biệt cao hơn từ 9 – 11 tầng, kiến trúc theo kiểu nhà ống phân lô). Do lịch sử để lại, chiếm số lượng mật độ lớn nội đô, phân bố tập trung nhiều ở khu vực trung tâm đô thị, các khu vực cũ nội đô. (2) Nhà cổ, nhà cũ là các công trình villa, nhà ở thấp tầng cổ, cũ đã được công nhận là di sản, được bảo tồn, tu bổ, sử dụng theo luật di tích văn hóa và các công trình nhà ở thấp tầng khác có giá trị chưa được xếp hạng, dự định sẽ được lập list danh sách kiểm kê, đang được sử dụng trong đời sống cư dân. Không chỉ có thế, nhóm nhà ở thấp tầng trong những dự án phát triển đô thị mới gồm có 02 loại chính là: (3) Villa (có khuôn viên độc lập, quy mô từ 200m2 – 500m2 và tiếp xúc với thiên nhiên ở nhiều hướng, cao từ một – 4 tầng, bên cạnh ngoài S diện tích ở còn nhiều tiện ích cao cấp như bể bơi, gara…). Đây là dòng hình nhà ở quy chuẩn cao cấp nội đô; (4) Nhà ở liên kế (được xây dựng trên mảnh đất riêng có quy mô S diện tích từ 50m2 – 100m2, các căn nhà được ghép sát nhau, tiếp cận thiên nhiên một hay hai hướng, cứ 8 – l0 khối tạo lên một dãy nhà, tầng cao nhất 3-4 tầng, không gian nội thất ngoài không gian ở còn phối hợp ở vừa làm nghề phụ, kinh doanh thương mại, dịch vụ.

Nhận định chung, một vài tồn tại trong kiến trúc nhà thấp tầng đô thị hiện tại:

Về quy hoạch cảnh quan kiến trúc, do lịch sử để lại, kiến trúc công trình nhà ở thấp tầng đô thị còn phần đa lộn xộn, kém chất lượng, gây nên thực trạng phá vỡ cảnh quan kiến trúc đô thị. Thực trạng xây chen, ken chặt nhà thấp tầng trong khu vực trong đô thị cũng ẩn chứa nhiều nguy cơ quá tải hạ tầng. Việc tận dụng đất tối đa cho nên việc tạo các khoảng lùi thay đổi, các không gian trống, Màu sắc của từng nhóm công trình không được quan tâm dẫn đến tuyến đường có dạng buồn tẻ, đơn điệu, không điểm nổi bật. Trong vô số nhiều KĐT mới, tuy đặt tên là nhà mặt phố, nhà thương mại nhưng bản chất lại không phải là công trình nhà ở thuận lợi cho kinh giao thương khi có cổng, tường rào kiểm soát, không có giao thông tiếp xúc từ ngoài vào. Các tuyến phố thương mại cũng chưa học hỏi mô hình để có tính kết nối đồng hóa về nét đẹp tổng thể phong cảnh.

Nhà ở thấp tầng hiện hữu với mật độ dày đặc, quy mô diện tích nhỏ, kiến trúc còn thiếu đồng bộ tại khu vực trung tâm TP Hà Nội
Nhà ở thấp tầng hiện hữu với tỷ lệ dày đặc, quy mô S diện tích nhỏ, kiến trúc còn thiếu đồng bộ tại khu vực trung tâm thành phố Hà Nội

Về kiến trúc, công trình nhà ở thấp tầng hiện hữu nội đô hiện tại chủ yếu còn manh mún, đơn lẻ mà ít lưu ý đến tổng thể và sự đồng bộ. Các xu thế kiến trúc nhại cổ, sai mật độ – tỷ xích, học đòi, thiếu tính văn hóa và thích ứng vi khí hậu cũng tương đối phổ biến trong kiến trúc nhà ở thấp tầng nội đô thời gian vừa qua. Những thiết kế mang tính sáng tạo nghệ thuật, tính đương đại… còn thiếu nhất là sự tiệm cận với các xu thế kiến trúc xanh, thích ứng khí hậu nhiệt đới còn hạn chế. Việc tổ chức vi khí hậu vẫn chủ yếu là thụ động, thiếu tính chủ động trong kiến trúc căn nhà.

Trong một vài KĐT mới và các dự án nhà liền kề, các mẫu nhà có thiết kế sẵn điển hình và xây lắp đồng loạt, ngoài mất bản sắc – tính nhận diện cho KĐT mới, gia chủ đều phải cải tạo, sửa chữa thay đổi kiến trúc trúc dẫn đến lãng phí thời gian, nguyên vật liệu và tài chính. Không chỉ có thế, thời gian vừa qua, loại hình nhà ở Shophouse cũng đã xuất hiện phổ biến tại một vài KĐT mới, sắp xếp thêm tại các tầng trên và kinh doanh dịch vụ thương mại cá thể tại tầng trệt, trong lúc thiếu các cơ sở luật lệ các mật độ về khối tích, tầng cao, cũng như mật độ giữa những không gian sinh hoạt gia đình và kinh doanh thương mại dịch vụ dẫn đến ẩn chứa nhiều bất cập buộc phải giải quyết trong tương lai cả ở cấp độ từng căn nhà đơn lẻ cũng như tổng thể tất cả khu vực đô thị.

Về kết cấu và sử dụng nguyên vật liệu, việc lạm dụng tràn ngập các nguyên vật liệu thiếu nghiên cứu bài bản cho công trình nhà ở thấp tầng nội đô như mái tôn, cửa kính,… làm công trình kém về thẩm mỹ, độ bền… cũng như tăng lên kinh phí vận hành – bảo trì công trình.

Trong bối thiên tai và chuyển đổi khí hậu, đang có xu thế càng ngày càng trầm trọng, mà khu vực đô thị cũng không là ngoại lệ chịu tác động cũng cho thấy những hạn chế về khả năng thích ứng cao của kiến trúc nhà ở thấp tầng nội đô hiện tại.

Kinh nghiệm của một vài đất nước trong khu vực

Tại Singapore, do hạn hẹp quỹ đất trong đô thị, các chính sách hạn chế phát triển công trình nhà ở cư dân thấp tầng nối liền trên đất nội đô luôn được duy trì mạnh mẽ trong những thời điểm vừa qua. Các luật lệ về xác định phương hướng kiến trúc, nhất là tầng cao và quy mô S diện tích được cơ quan tái phát triển đô thị Singapore luật lệ rất nghiêm ngặt nhằm bảo đảm sự đồng bộ của cảnh quan kiến trúc tổng thể tất cả khu vực. Cụ thể, với nhà ở hiện hữu nội đô, từ 05/2015, luật lệ quản lý chặt về chiều cao và khoảng lùi công trình để bảo đảm nét đẹp tổng thể trên toàn tuyến đường. Khuyến nghị chủ gia đình upgrade nâng cấp chất lượng, tiện nghi cho căn nhà lên các mức chuẩn cao hơn so với căn nhà hiện hữu cả về tiện ích, kết cấu, quy mô S diện tích, nhưng tuyệt đối cấm chia căn nhà cũ thành các căn nhà nhỏ. Các căn nhà cũ, nhà ở thấp tầng hiện hữu nội đô có giá trị, nhất là ở các khu vực trung tâm đô thị, được khuyến nghị upgrade nâng cấp sửa chữa theo đúng với kiến trúc nguyên gốc. Nhà nước giám sát và có cơ chế hỗ trợ dân cư trong những trường hợp đặc biệt hoặc cấp bách. Với nhà ở thấp tầng trong KĐT mới, Singapore cũng tiến hành lập Quy hoạch nhà ở thấp tầng nội đô với các luật lệ nghiêm ngặt chỉ một vài khu vực nhất định xã trung tâm được xây dựng các khu nhà ở thấp tầng, nhưng chỉ cho phép cao 2 -3 tầng với luật lệ sự kiểm soát rất cao. Các quận nằm ven đô chỉ cho phép xây dựng nhà ở kiến trúc kiểu Bungalow với chuẩn tiện nghi rất cao. Các kiểu hình kiến trúc xanh, kiến trúc sinh thái cũng được khuyến nghị mạnh mẽ, với tương đối nhiều cơ chế điểm thưởng (ưu đãi về thuế, phí,…) được vận dụng mạnh mẽ.

Hiện trạng kiến trúc nhà ở thấp tầng trong đô thị được cải tạo đồng bộ và sơ đồ hướng dẫn quản lý cải tạo kiến trúc nhà ở hiện hữu đạt chuẩn tại Singapore
Thực trạng kiến trúc nhà ở thấp tầng nội đô được cải tạo đồng bộ và sơ đồ chỉ dẫn quản lý cải tạo kiến trúc nhà ở hiện hữu đạt chuẩn tại Singapore

Tại Nhật Bản, nhà ở thấp tầng nội đô được xác định phương hướng phát triển theo cả style phong cách modern hiện đại và cổ truyền, nhưng hạn chế phát triển tại các quận trung tâm, tăng cường biến đổi các nhóm nhà ở thấp tầng thành các khu nhà căn hộ nhiều tầng để dành S diện tích đất tầng trệt cho những hoạt động công cộng. Trong hoàn cảnh luôn luôn xảy ra thiên tai, xác định phương hướng kiến trúc nhà ở thấp tầng luật lệ phải có có khả năng chống chịu thiên tai. Các căn nhà có niên hạn lớn (thường là hai mươi năm đối với nhà kết cấu gỗ và 30 năm đối với nhà kết cấu bê tông), bắt cần phải được upgrade nâng cấp, thậm chí đập bỏ để xây mới. Không chỉ có thế, nhà ở thấp tầng nội đô phụ thuộc vào kết cấu xây dựng có tầng cao thích hợp (nhà gỗ: 02 tầng, nhà BTCT: 03 tầng), tỷ lệ xây dựng tối đa 50%, hệ số sử dụng đất < 3 lần. Lời khuyên kiến trúc nhà ở thấp tầng phải có khả năng thông gió và chiếu sáng tự nhiên cao. Khuyến nghị các loại hình kiến trúc modern hiện đại để truyền tải tính đương đại, tối giản để tiết kiệm ngân sách, tối ưu để tận dụng hiệu quả các S diện tích nhà ở quy mô nhỏ nội đô, nhẹ để tiết kiệm nguyên vật liệu, kiến trúc xanh và tiết kiệm năng lượng, sử dụng các loại nguyên vật liệu tái chế – thân mật hệ sinh thái cũng được khuyến nghị và tăng cường.

Nhà ở theo hướng kiến trúc đương đại, sử dụng vật liệu thân thiện, áp dụng mô hình mái xanh, kiến trúc tối giản tại Nhật Bản
Nhà ở theo hướng kiến trúc đương đại, sử dụng nguyên vật liệu thân mật, vận dụng mô hình mái xanh, kiến trúc tối giản tại Nhật Bản

Tại Trung Quốc, là đất nước có vận tốc đô thị hóa rất cao, trong các năm vừa mới đây, chính quyền cũng phát hành nhiều xác định phương hướng, cũng như quản lý rất nghiêm ngặt kiến trúc nhà ở thấp tầng nội đô. Tháng 4/2011, để ngăn cản sốt nóng BĐS, chặn đứng sự bùng nổ rộng mở đô thị và bảo đảm an ninh thực phẩm, Hội đồng Nhà nước đã phát hành một chỉ dẫn với tên thường gọi “Danh mục chỉ dẫn cấm đầu tư nước ngoài vào xây dựng villa ở các đô thị”. Các xác định phương hướng về kiến trúc cũng được phát hành, đồng thời được thông tin, tuyên truyền rộng thoải mái để dân cư không còn bị sa đà tốn kém với kiểu nhà ở sang chảnh – kiến trúc ngoại lai. Thay vào đó, các tiêu chuẩn “Kiến trúc nhà ở vì sức khỏe và hệ sinh thái sống tiện ích” được nhấn mạnh và khuyến nghị phát triển. Kế hoạch đô thị hóa mới Quốc gia 2014-2020, cũng nhấn mạnh công cuộc modern hiện đại hóa mới của Trung Quốc nhắm đến con người, thân mật với hệ sinh thái và mang cổ truyền văn hóa. Các cách thức kiến trúc nhà ở kế thừa các giá trị cổ truyền (như kiểu kiến trúc nhà ở Tứ Hợp Viện…) có thể sẽ được ưu tiên xây dựng lại ở các thành phố và thị trấn mới, các xác định phương hướng mục đích về “Lấy lại bản sắc kiến trúc và kế thừa giá trị cổ truyền” cũng được nhấn mạnh đối với riêng mảng kiến trúc nhà ở thấp tầng trong và ngoài đô thị.

Mô hình thiết kế nghiên cứu nhà ở thấp tầng đô thị đề xuất áp dụng kế thừa mô hình nhà ở truyền thống
Mô hình thiết kế nghiên cứu nhà ở thấp tầng đô thị kiến nghị vận dụng kế thừa mô hình nhà ở cổ truyền

Quản lý phát triển kiến trúc nhà ở thấp tầng đô thị trong xác định phương hướng phát triển kiến trúc Việt Nam

Về xác định phương hướng phát triển chung, với nhóm các công trình nhà ở hiện hữu nội đô, các công trình nhà cổ, nhà cũ thấp tầng có giá trị (như đã được xếp hạng di sản hoặc nằm ở trong list danh sách được quản lý đặc điểm), cần phải được tiến hành thăm dò khảo sát, thống kê phân loại, cũng như xây dựng kế hoạch về nguồn kinh phí, phương pháp kỹ thuật… để quản lý, bảo tồn, trùng tu theo đúng trình tự của Luật di tích văn hóa và các văn bản luật pháp khác có liên quan). Với các công trình nhà ở thấp tầng cư dân khác, trên cơ sở các content nội dung quy hoạch chỉnh trang đô thị, xây dựng kế hoạch cải tạo chỉnh trang, trong những khu vực lõi đô thị. Đặc biệt, tăng cường quy hoạch chỉnh trang các công trình nhà ở thấp tầng siêu mỏng, siêu méo, quy mô nhỏ, nhà dột nát, hỏng, xuống cấp, không còn bảo đảm chất lượng và tiện nghi sử dụng an toàn, dài lâu vững bền cho những người dân. Theo lộ trình, suy xét biến đổi theo hướng giải tỏa, sáp nhập các công trình này phục vụ các mục tiêu công cộng, công ích. Giảm đi bớt số lượng và tỷ lệ nhà ở hiện hữu các khu vực lõi đông đúc, khu phố cổ, khu phố cũ, khu làng cũ trong khu vực trong đô thị, những nơi có chất lượng sống còn chưa đạt chuẩn để cải tạo upgrade nâng cấp rộng mở hệ thống cơ sở giao thông, hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, nhất là bổ sung rộng mở các tuyến phố giao thông hiện hữu, công viên xanh, không gian thể dục Sport thể thao, sinh hoạt cộng đồng…

Với các KĐT mới, hạn chế phát triển nhà ở thấp tầng theo như hình thức phân lô, với quy mô S diện tích nhỏ, tầng cao lớn tại khu vực trung tâm lõi đô thị. Công trình phải bảo đảm các yêu cầu về tỷ lệ xây dựng, tầng cao, hệ số sử dụng đất, khoảng lùi… đã được quy hoạch phê duyệt và cấp phép xây dựng. Theo lộ trình, nghiên cứu tăng luật lệ về giới hạn S diện tích tối thiểu và tối đa cho nhà ở thấp tầng trong dự án phát triển đô thị được cấp phép, để bảo đảm các chuẩn tiện nghi sinh hoạt của dân cư, có thể vận dụng nhiều kiểu kiến trúc modern hiện đại mới, nhưng cũng hạn chế những bất cập về khoảng cách giầu – nghèo đang có xu thế tăng lên.

Về cách thức và thẩm mỹ kiến trúc, trong tiến trình cải tạo, upgrade nâng cấp, xây mới cần ưu tiên vận dụng ngôn ngữ kiến trúc modern hiện đại, có tính bản sắc và nhận diện cao, theo đúng với xu thế kiến trúc đang phát triển hiện tại tại địa phương.

Kiến trúc Tân Cổ Điển nhà thấp tầng tại KĐTM Kiến Hưng (Hà Đông, Hà Nội)
Kiến trúc Tân Cổ Điển nhà thấp tầng tại KĐTM Kiến Hưng (Hà Đông, TP Hà Nội)

Hạn chế vận dụng đại trà các xu thế kiến trúc nhại cổ, kiến trúc có chi tiết trang trí rườm rà, xa lầy vào chủ nghĩa cách thức gây phản cảm, phá vỡ tổng thể cảnh quan kiến trúc chung cũng như lãng phí – tốn kém kinh phí đầu tư xây dựng.

Kiến trúc nhà thấp tầng xuôi theo các trục tuyến đường cần phải có sự thống nhất về tổng thể trong không gian toàn tuyến như chiều cao, khoảng lùi, cách thức kiến trúc. Mặc dù vậy, Kiến trúc nhà ở thấp tầng cũng cần hạn chế sự dập khuôn, cào bằng đơn điệu, nhấn mạnh tính nhận diện và bản sắc vùng miền, nhưng phải đạt được sự thống nhất về tổng thể, đối sánh nghiêm ngặt, hợp lí về cách thức, chiều cao, mật độ, Màu sắc, chi tiết giữa những công trình cạnh nhau để đạt được tổng thể kiến trúc – phong cảnh hợp lí. Về dây chuyền chức năng, kiến trúc nhà ở phải bảo đảm tính tiện nghi, có bảo đảm số lượng các phòng sinh hoạt, thích hợp với sở thích và lối sống, mức độ tiện nghi chung, cũng như khả năng tài chính của hộ gia đình. S diện tích các phòng công năng sử dụng bảo đảm tiện nghi và thích hợp với tập tính sinh hoạt tại địa phương.

Suy xét sắp xếp các cách thức hoạt động sản xuất kinh doanh quy mô nhỏ của những hộ gia đình phối hợp trong hộ gia đình, tạo điều kiện để phát triển kinh tế hộ gia đình nói chung. Với 1 số loại hình nhà ở thấp tầng mới như Shophouse, nhà ở thấp tầng phối hợp công sở, thương mại, dịch vụ… tổ chức năng cần phải có sự khống chế mật độ thích hợp giữa phần S diện tích dịch vụ, thương mại, với S diện tích ở theo đúng chuẩn tiện nghi dịch vụ và sinh hoạt mà luật pháp luật lệ.

Các công trình villa cổ, nhà ở cổ có giá trị đã được xếp hạng di sản hoặc nằm ở trong list danh sách bảo tồn cần sớm được cải tạo chỉnh trang, bảo đảm bảo tồn và phát huy các giá trị bản sắc kiến trúc đặc thù, góp phần cho tính nhận diện bản sắc chung của đô thị, địa phương theo vùng miền.

Kiến trúc nhà ở Shophouse theo phong cách ngôn ngữ kiến trúc “nhập khẩu” và kế thừa kiến trúc truyền thống bản địa tại TP Hạ Long (Quảng Ninh)
Kiến trúc nhà ở Shophouse theo style phong cách ngôn ngữ kiến trúc “nhập khẩu” và kế thừa kiến trúc cổ truyền bản địa tại TP Hạ Long (Quảng Ninh)

Về tính văn hóa cộng đồng, kiến trúc nhà ở thấp tầng nội đô phải được upgrade nâng cấp, chỉnh trang, xây mới. Cùng với đấy, kiến trúc nhà ở thấp tầng trong những dự án phát triển đô thị mới phải nêu bật được tính modern hiện đại, đồng thời tôn trọng và thích hợp với tập quán sinh hoạt, đặc thù văn hóa theo vùng miền địa phương, và nhóm dân tộc. Dựa trên các nền tảng giá trị kiến trúc nhà ở cổ truyền tại vùng miền, nhóm dân tộc để có sự kế thừa phát triển trong kiến trúc nhà ở đương đại. Với các khu vực có tính đặc điểm cao như khu vực phát triển du lịch cộng đồng, khu vực nhà ở gắn liền với bảo tồn văn hóa cổ truyền… , khuyến nghị vận dụng các mô hình nhà ở xây mới mang đậm các nhân tố bản sắc kiến trúc cổ truyền, nhưng có chọn lọc và cách tân trên sở loại trừ các nhân tố không còn thích hợp, áp dụng công nghệ, nguyên vật liệu, thiết bị mới…  

Về vận dụng kiến trúc xanh, vững bền – tiết kiệm năng lượng và sinh thái, có khả năng chống chịu thiên tai và thích ứng với chuyển đổi khí hậu, kiến trúc nhà ở thấp tầng nội đô phải thích hợp thích ứng cao với điều kiện khí hậu tại địa phương (nắng, mưa, gió bão…) từ đấy đề ra các phương án tối ưu nhất theo đặc thù khí hậu vùng miền gồm có: khả năng cách nhiệt vào mùa nóng và giữ nhiệt, nồm ẩm vào mùa lạnh cho khu vực Miền núi và trung du phía Bắc, Đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ; chống nóng, khô hạnh và chống chịu lượng mưa cường độ cao theo mùa cho vùng Nam Trung Bộ, Nam Bộ, Tây Nguyên). Tận dụng tối đa các điều kiện có lợi của tự nhiên theo vùng miền của khu vực xây dựng, hạn chế tiêu thụ năng lượng hóa thạch là vấn đề phải được nhấn mạnh.

Kiến trúc công trình có sự phối hợp hài hòa giữa thiết kế tiết kiệm năng lượng thụ động và chủ động trong đó thiết kế thụ động là thế mạnh. Trong đó, công trình nhà ở phải có thiết kế với các mảng không gian xanh và khoảng trống thông tầng lấy sáng, điều hòa vi khí hậu, thông gió cho công trình. Kiến trúc tiết kiệm năng lượng thụ động là 1 xác định phương hướng rất quan trọng và cần được nghiêm túc quan tâm ngay từ giai đoạn này. Trong đó, thiết kế phải đáp ứng được các tiêu chuẩn chuẩn khu vực và quốc tế, nhắm đến nhà ở tiêu thụ năng lượng bằng không(Zero Energy Building), lấy phương pháp thiết kế cổ truyền làm cơ sở tiền đề nghiên cứu.

Tùy thuộc vào đặc thù địa chất thủy văn, khí hậu, các số liệu và kịch bản dự báo về thiên tai và chuyển đổi khí hậu của từng vùng miền địa phương, kiến trúc nhà ở thấp tầng trong những dự án phát triển KĐT mới cần ưu tiên nâng cao khả năng chống chịu thiên tai, ứng phó – thích ứng với chuyển đổi khí hậu (như: chống chịu lũ quét, sạt lở đất đối với khu vực Miền núi và trung du phía bắc và vùng núi Bắc Trung Bộ; Chống gió bão, ngập lụt khu vực ĐB Bắc Bộ; Chống gió lốc, bão lũ, ngập lụt khu vực Duyên hải Bắc Trung Bộ; Chống lũ quét, hạn hán khu vực Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ; Chống sạt lở đất và hạn hán khu vực Tây Nguyên và vùng núi Nam Trung Bộ; Chống ngập lụt, tương thích với lũ, triều cường của khu vực ĐBSCL).

Các công trình nhà ở thấp tầng xanh, tiết kiệm năng lượng, sinh thái với tương đối nhiều cây cối cũng cần phải được khuyến nghị, tăng cường phát triển nhân rộng trên phạm vi tất cả những đô thị trong khoảng thời gian tới.

Về áp dụng khoa học công nghệ mới, công nghệ thông minh, Trong tương lai, cần tiếp tục tăng cường áp dụng dụng các công nghệ, nguyên vật liệu, thiết bị mới vào công trình nhà ở thấp tầng (sàn bê tông nhẹ, gạch không nung, bình nước nóng năng lượng mặt trời…) nhằm tiết kiệm ngân sách và thời gian xây dựng công trình, giảm tác hại đối với hệ sinh thái. Mặc dù vậy, các công nghệ được chọn lựa phải là các công nghệ đã được chuẩn hóa, được thí điểm và trong nước hóa, để có tính tương thích phổ biến cao, thích hợp với các điều kiện đặc thù theo vùng miền, điều kiện của đại bộ phận dân cư.

Tăng cường việc áp dụng các nguyên vật liệu mới modern hiện đại với nguyên vật liệu địa phương. Tăng cường việc nghiên cứu, hoàn thiện nâng cao chất lượng các công nghệ và nguyên vật liệu xây dựng sẵn có ở địa phương, giúp gia tăng mức độ vững bền của công trình, giảm kinh phí đầu tư xây dựng, cũng như tham dự tạo dựng tính nhận trình diện trúc và nguyên vật liệu riêng cho công trình theo địa phương, vùng miền. Trong điều kiện cho phép, tăng cường áp dụng đại trà các nền tảng công nghệ thông minh trong quản lý vận hành và nhà ở thấp tầng trong những dự án phát triển đô thị mới như công nghệ IOT, Smart Home…

Về tính kinh tế, kiến trúc nhà ở thấp tầng nội đô mới phải có kinh phí đầu tư thích hợp với thu nhập của đại bộ phận dân cư, để ngăn cản tính trạng nhà villa và liền kề bỏ hoang trong những dự án phát triển đô thị mới đang diễn ra hiện tại. Trừ một vài trường hợp đặc biệt, kiến trúc nhà ở thấp tầng trong những dự án phát triển đô thị mới cần hạn chế sự sang chảnh, lãng phí nguồn lực đầu tư của xã hội.

Ths. KTS Vũ Đinh Thành, Ths. KTS Phạm Hoàng Phương – Viện Kiến trúc Quốc gia, Bộ Xây dựng
© TCKT


Tài liệu tham khảo

  1. Phạm Hoàng Phương (2018), Kiến trúc nhà mặt phố hiện tại – Hiện trạng và kiến nghị, TCKT Việt Nam.
  2. Non – residence Handbook, Cơ quan tai phát triển đô thị Singapore, 2019
  3. Kế hoạch đô thị hóa mới Quốc gia Trung Quốc giai đoạn 2014-2020
  4. National Report of Japan, Third United Nations Conference on Housing and Sustainable Urban Development, UN-Habitat, 12/2019.
  5. Quy chuẩn Quốc gia TCVN 9411 : 2012 Nhà ở liên kế – quy chuẩn thiết kế.

 

Thêm nhiều thông tin hấp dẫn với BdsNhaDat.com.vn



T.H

Tham gia thảo luận

So Sánh BĐS

So sánh