Trong xã hội modern hiện đại, cuộc sống con người càng ngày càng phát triển kéo theo điều kiện sống và nhu cầu tận hưởng ngày 1 tăng mạnh. Khái niệm “tận hưởng” ở đây được hiểu là tận hưởng về cả mặt vật chất lẫn tinh thần. Đô thị càng modern hiện đại, cư dân càng có tương đối nhiều thời cơ tiếp xúc với những cách thức giải trí mới lạ, sinh động, càng có tương đối nhiều thời cơ trải nghiệm những tiến bộ khoa học công nghệ nhằm thỏa mãn nhu cầu giải trí. Thế nhưng, tất cả các bức tranh tươi đẹp về một đô thị hài hòa, vững chắc về mặt xã hội và hạ tầng chỉ với thể được vẽ nên một khi cư dân cảm nhận thấy thoải mái khi sống nội đô đó và sự tương tác giữa những cư dân thành thị được kích thích và phát triển 1 cách tích cực.
1 trong những sáng chế vĩ đại nhất của nghệ thuật quy hoạch đô thị châu Âu nhằm thể hiện sự công bằng và thúc đẩy tương tác giữa con người và các hoạt động xã hội đấy là những trung tâm thành phố, không gian thương mại trung tâm của một thành phố có thiết kế 1 cách có chủ ý, hay còn được gọi với tên thân thuộc thời nay là quảng trường. Bài viết muốn mang tới một chiếc nhìn hết sức tổng quan về lịch sử phát triển của quảng trường, nguyên nhân quảng trường trở thành một trong các không gian quan trọng nhất trong tổng thể đô thị, cũng giống như những nhân tố chính quyết định thành công của một không gian quảng trường qua việc phân tích một số giả dụ tiêu biểu.
Những khái niệm và quá trình phát triển của quảng trường từ thời kỳ cổ đại đến nửa đầu thế kỷ 20
Quảng trường là 1 điểm tập trung nội đô, cung ứng một không gian giúp dân cư đô thị trao đổi về cả mặt xã hội và kinh tế. Ý nghĩa của quảng trường thường khác với công viên và những cảnh quan không gian mềm nội đô. Nếu mà vườn hoa và công viên là những không gian công cộng “đóng” về mặt phong cảnh, kha khá tách biệt với phần còn lại của đô thị về mặt địa điểm và chỉ được sử dụng vào những thời điểm nhất định vào ngày thì quảng trường lại được xem là một thực thể cấu thành đô thị, gắn bó khăng khít với những nhân tố tạo thị khác như giao thông, kiến trúc, kinh tế, xã hội,… Quảng trường thường được sở hữu công cộng, có thể tiếp xúc bởi toàn bộ mỗi người. Đặc biệt, đối với các đất nước châu Âu, sự tiến lên và sinh ra của quảng trường không những mang dấu tích về mặt kiến trúc xây dựng hay thiết kế đô thị, mà còn là biểu tượng của sự tiến lên về tính dân chủ và mức độ văn minh xã hội.
Những khái niệm trước tiên về quảng trường xuất hiện cách đây hơn 6000 năm dưới thời Hy Lạp và La Mã cổ đại, cùng sự sinh ra của các thể chế chính trị trước tiên tại châu Âu. Quảng trường thời Hy Lạp cổ đại được biết đến với tên thường gọi Agora. Mặt bằng của các không gian này thường được quy hoạch hình chữ nhật hoặc hình vuông. Quảng trường thời kỳ này là những không gian ngoài trời thường được đặt tại trung tâm thành phố, là giao của các trục giao thông quan trọng, dễ dàng tiếp xúc từ mọi hướng. Về mặt xã hội, ngay từ những khái niệm trước tiên, Agora đã được xem là biểu tượng cho sự dân chủ của người Hy Lạp cổ đại. Tất cả những hoạt động chính trị, Sport thể thao, văn nghệ quan trọng đều diễn ta tại đây và toàn bộ mọi tầng lớp cư dân đều sở hữu quyền tham dự. Kế thừa những giá trị đó, quảng trường thời La Mã, với tên thường gọi forum, cũng chính là nơi sum họp dân chúng và diễn ra những hoạt động chính trị, văn hóa quan trọng của thành phố. Trên đà phát triển đó, đến thời kỳ trung đại vào khoảng thế kỷ 13, trên khắp châu Âu đã trông thấy sự sinh ra của đồng loạt quảng trường tại Anh, Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Hà Lan, …
Tiếp nối, thế kỷ 15-16, thời kỳ Phục hưng đã mở ra một cuộc cách mạng về quảng trường với những phát kiến quan trọng của người Ý. Thiết kế quảng trường thời kỳ này đã được gắn chặt với quy hoạch và thiết kế đô thị, quảng trường trở thành một bộ phận then chốt không thể tách rời của đô thị. Với nhân tố con người là trung tâm, những quảng trường thời kỳ phục hưng đã rất thành công trong việc tạo lập nền tảng cho các bản thiết kế quảng trường coi trọng đến nhân tố thẩm mỹ, mật độ giữa con người và các công trình vòng quanh cũng như việc phối hợp hệ thống dịch vụ công cộng với không gian nghỉ ngơi trong phạm vi quảng trường nhằm kích thích tối đa sự ghi lại và tương tác giữa con người. Một vài quảng trường tiêu biểu thời kỳ này: quảng trường trung tâm del Campo (thành phố Sienna), quảng trường Santissima Annunziata (thành phố Florence), quảng trường St Marco (thành phố Venice),…
Thế kỷ 17-18, tư tưởng Phục Hưng tiếp tục được rộng mở và phát triển, cùng với đấy là sự sinh ra của style phong cách kiến trúc Barocco tại các đất nước Tây Âu, điển hình là Ý, Pháp, Đức, Tây Ban Nha,… Tại Pháp, từ cuối thế kỷ 16 đến giữa thế kỷ 18 trông thấy sự sinh ra của không ít thành phố được quy hoạch theo các nguyên tắc Phục hưng, điển hình là các thành phố Nancy, Charleville, Paris, … Hệ thống quảng trường của những thành phố này vì thế chịu nhiều tác động từ style phong cách Phục Hưng với mặt bằng kỷ hà căn bản (hình chữ nhật, hình vuông) với công năng là các quảng trường hạt nhân trung tâm thành phố, giao điểm của những trục giao thông quan trọng. Một vài quảng trường tiêu biểu ở Pháp thời kỳ này là Place Stanislas (thành phố Nancy), Place Ducale (thành phố Charleville),… Trong thời điểm đó tại Ý, thời gian này trông thấy sự sinh ra và phát triển của style phong cách kiến trúc Barocco, style phong cách kiến trúc vừa bổ sung kế thừa những thành tựu của style phong cách Phục hưng ở giai đoạn trước, vừa có những phát triển mang tính đặc thù trong cách thể hiện và tư duy. Điều đó được chứng tỏ rất rõ trong việc thiết kế các quảng trường. Nếu các quảng trường thời kỳ Phục hưng thường có mặt bằng đơn giản, chủ yếu là các hình dáng bên ngoài kỷ hà đối xứng đơn trục thì mặt bằng của quảng trường thời kỳ Barocco phong phú hơn với cách sắp xếp đối xứng đa trục (mặt bằng hình tam giác, hình thang cân)…, cùng với đấy là cách xử lý các chi tiết trang trí rắc rối phức tạp hơn, nhiều Màu sắc hơn, qua đó tạo cho đô thị một hình thái động phong phú và linh động hơn. Một vài quảng trường có thể xem như là tiêu biểu cho style phong cách Barocco là quảng trường St Peter và quảng trường Tây Ban Nha (thành phố Roma), quảng trường Vosges (thành phố Paris),… Style phong cách kiến trúc Barocco đã đánh dấu cho sự tiến lên đến đỉnh cao của kiến trúc cổ điển phương Tây, trước lúc cách mạng công nghiệp nổ ra, nơi mà tư duy kiến trúc và quy hoạch đô thị đã thay đổi hoàn toàn. Và các quảng trường cũng không phải ngoại lệ.
Quảng trường nội đô modern hiện đại và những nhân tố quyết định thành công của quảng trường
Vào thế kỷ 19, cuộc cách mạng công nghiệp đã mở màn cho 1 loạt thay đổi lớn trong thiết kế và quy hoạch đô thị. Sự xuất hiện của xe lửa và đầu máy hơi nước đã thúc đẩy sự giao thương giữa những thành phố, tạo lên những đại đô thị (megacities) với tỷ lệ dân số lớn và nền kinh tế nhộn nhịp. Sự tiến lên về kinh tế xã hội này đã gây những tác động không nhỏ đến hình thái các đô thị. Việc cư dân dồn vào về các thành phố lớn tạo lên hiện tượng bong bóng cho sự tiến lên dân số của những thành phố. Sự tiến lên này tạo nên nhu cầu lớn về nhà ở, dịch vụ, gây ảnh hưởng lớn đến hệ sinh thái và tính gắn kết cộng đồng. Như 1 hệ quả tất yếu, nửa đầu thế kỷ 20, sự tiếp diễn của những quá trình phát triển kinh tế xã hội mạnh mẽ cộng với sự sinh ra của những phương tiện giao thông cá nhân như ôtô, mô tô đã tạo ra một sự thay đổi lớn trong việc sử dụng quảng trường trong những thành phố, ảnh hưởng tiêu cực đến sự tương tác giữa dân cư đô thị trong những không gian công cộng. Một giả dụ điển hình chứng tỏ sự thay đổi tiêu cực này: nhiều quảng trường đã bị chuyển đổi công năng từ 1 không gian công cộng, nơi diễn ra các hoạt động giải trí, nghỉ ngơi của cư dân trở thành một đảo giao thông thuần túy, mất đi nhiệm vụ và công năng rộng lớn của chính nó nội đô. Những quảng trường ở Thổ Nhĩ Kỳ hay các nước thuộc địa châu Á là những giả dụ điển hình(1).
Chỉ đến khi những vấn đề hệ sinh thái và chất lượng sống của con người trở nên đáng lo âu tại các thành phố lớn, công năng của quảng trường mới được coi lại 1 cách nghiêm túc. Bằng những cuộc cải cách trong tư tưởng quy hoạch coi trọng hơn đến hệ sinh thái và sự tương tác giữa con người và hình thái đô thị, quảng trường đã được định nghĩa lại và luôn được xem như hạt nhân của các đồ án quy hoạch đô thị từ quy hoạch chung tới quy hoạch chi tiết đơn vị ở hay nhóm ở.
Về mặt hình thái, đô thị modern hiện đại được xem là sự phối hợp của các khoảng đặc (công trình kiến trúc) và rỗng (đường giao thông, quảng trường, vườn hoa cây cối,…). Số lượng và mật độ của các khoảng đặc rỗng này quyết định hình thái và cấu trúc đô thị. Quảng trường, vì thế, đảm nhiệm nhiệm vụ vô cùng quan trọng là tạo thành sự cân bằng cho hình thái đô thị với những khoảng hở cấp bách dành riêng cho hoạt động xã hội của con người. Quảng trường nội đô modern hiện đại được định nghĩa là 1 không gian công cộng được bao bọc bởi những công trình kiến trúc nhiều chức năng, từ hành chánh xã hội đến giải trí, thương mại, dịch vụ, có thiết kế hợp lí phục vụ cho việc nghỉ ngơi của con người và khuyến nghị các hoạt động nghệ thuật đô thị.
Phân loại quảng trường
Có nhiều KTS thiết kế, nhà quy hoạch đô thị, trong những công trình nghiên cứu của mình đã nỗ lực phân loại quảng trường, chủ yếu qua công năng và hình thái của chúng. Theo Paul Zucker, quảng trường có thể phân chia ra 5 loại: quảng trường đóng (enclosure square): quảng trường được bao bọc bởi những công trình kiến trúc và dịch vụ; quảng trường gắn với 1 công trình quan trọng của đô thị (dominated square); quảng trường được tạo thành vòng quanh trung tâm đô thị (quảng trường hạt nhân – nuclear square); quảng trường được làm ra bằng sự gắn kết của các thành tố không gian không giống nhau (grouped square); quảng trường vô định hình (amorphous square). Còn theo Shalftoe (2008, p76), chỉ với 2 loại quảng trường là quảng trường mở (open square) và quảng trường đóng (enclosed square). Thế nhưng, dù phân loại theo cách nào thì quảng trường vẫn đảm nhiệm nhiệm vụ quan trọng là lôi cuốn và kích thích hoạt động xã hội của con người. Những nỗ lực phân loại quảng trường đều nhằm đề cao tầm quan trọng và thái độ nghiêm túc trong việc tiếp xúc và nghiên cứu 1 cách khoa học về không gian công cộng này.
Những nhân tố quyết định thành công của quảng trường
Thời nay, sự thành công của một quảng trường có thể quyết định bằng những nhân tố sau:
- Khả năng tiếp xúc (Nhân tố giao thông):
Nhân tố giao thông đóng vai trò quan trọng trong việc quyết định sự thành công của quảng trường: một quảng trường chỉ với thể lôi cuốn tối đa sự tiếp xúc và ghi lại của người dùng một khi nó tọa lạc tại một địa điểm dễ tiếp xúc về mặt giao thông, nhất là giao thông công cộng. Mặt khác, quảng trường cũng cần là điểm trung chuyển của những trục giao thông chính của thành phố, nơi mà từ đấy người dùng có thể dễ dàng di chuyển đến các khu vực trung tâm khác trong thành phố. Quảng trường Bellecour (thành phố Lyon) có thể xem như là một giả dụ điển hình cho thành công trong việc quy hoạch giao thông: Quảng trường Bellecour nằm tại vị trí trung tâm, là điểm trung chuyển lớn của thành phố, có thể dễ dàng tiếp xúc bằng các phương tiện công cộng như tàu điện ngầm hay tàu điện. Mặt khác, từ Bellecour có thể di chuyển dễ dàng tới nhiều quảng trường khác, hai trung tâm khác của thành phố là khu phố cổ Lyon và quảng trường Tòa thị chính Lyon cũng không gian công cộng đặc sắc ven hai dòng sông Rhône và Saône trong tầm chỉ 10 phút đi dạo. Quảng trường Bellecour vì thế có thể xem như là quảng trường hạt nhân, vừa đóng vai trò là không gian công cộng trung tâm, vừa đóng vai trò là điểm trung bàn giao thông quan trọng kết nối các không gian đô thị.
- Khả năng thu hút và kích thích hoạt động và sự ghi lại của con người kinh qua các giải pháp thiết kế đô thị, thiết kế và bố trí các công trình kiến trúc vòng quanh quảng trường và hệ thống thương mại dịch vụ:
1 cách cụ thể, từ những nhân tố lớn như địa điểm đối sánh của quảng trường với thành phố, bán kính phục vụ lớn, đối tượng sử dụng quảng trường phong phú, đến những nhân tố nhỏ cấu thành không gian cụ thể như cách thiết kế lối tiếp xúc, ghế đá, đài phun nước, cách thiết kế và bài trí cây cối,… đều đóng góp thêm phần tạo thành sự thành công của một quảng trường. Nếu giống như những nhân tố lớn lôi cuốn người dùng đến với quảng trường thì các nhân tố nhỏ vừa nêu góp phần hiệu quả vào việc níu giữ người dùng ở lại. Không chỉ có thế, một quảng trường thành công còn buộc phải là nơi diễn ra những hoạt đông phong phú, từ nghỉ ngơi thuần túy đến những hoạt động có tính tương tác cao như trình diễn âm nhạc, Sport thể thao, nghệ thuật đường phố,… Xét những nhân tố này, quảng trường Campo [Piazza del Campo] (thành phố Siena, Italy) là 1 giả dụ điển hình cho việc thiết kế sắc sảo và hợp lí nhằm lôi cuốn số lượng tối đa người dùng. Quảng trường thời kỳ Phục hưng này đã được trang website Projects for public Spaces vote bình chọn là 1 trong những số những quảng trường đẹp nhất thế giới. Quảng trường có mặt bằng hình rẻ quạt, được tạo một độ dốc hợp lí từ tây bắc đến đông nam với công dụng hướng người dùng vào trung tâm là công trình Palazzo Pubblico. Những con đường đi dạo ngắn kết nối quảng trường với con đường song song phía tây bắc được tạo độ dốc to hơn độ dốc quảng trường với điểm thấp đặc biệt là cốt sàn của quảng trường nhằm với mục tiêu xác định phương hướng người đi dạo vào trung tâm quảng trường. Mặt khác, cách sử dụng nguyên liệu và lát nền của khu vực trung tâm làm người dùng có cảm nhận thân mật và có thể ngồi ở mọi nơi. Các bục ngồi hình trụ đặt xuôi theo chu vi của quảng trường có thể vừa làm ghế ngồi, vừa làm chỗ dựa lưng đồng thời có công dụng về mặt xác định phương hướng và phân chia không gian. Không gian dịch vụ được sắp xếp hợp lí xunh quanh quảng trường góp phần không nhỏ vào việc níu giữ khách du lịch ở lại đây.
- Mật độ đối sánh của những nhân tố cấu thành quảng trường với con người:
Một quảng trường bảo đảm được những mật độ hài hòa giữa những kích thước quảng trường, chiều cao và bề rộng của những công trình vòng quanh,… có thể tạo cho tất cả những người sử dụng ấn tượng quen thuộc và sự thoải mái khi ghi lại. Theo Shaftoe (2008, p.73), những quảng trường với S diện tích quá lớn có thể gây cảm nhận không thân mật với con người, trái lại, những quảng trường quá nhỏ có thể tạo lên cảm nhận claustrophobic (tạm dịch: cảm nhận sợ không gian chật) cho tất cả những người sử dụng và hơn thế nữa chúng không đủ S diện tích cho các hoạt động xã hội. Trên thực tiễn, có không ít quan điểm của những KTS thiết kế và các nhà thiết kế đô thị về mật độ lý tưởng cho 1 quảng trường. Chẳng hạn, nếu mà kích thước trung bình của một quảng trường thời kỳ Phục hưng là 57x140m thì Jan Gehl, trong cuốn Life between buildings (Cuộc sống giữa các công trình kiến trúc – 1987) lại cho rằng kích thước lý tưởng cho 1 quảng trường trung bình là 70-100m, và khoảng cách tối đa để nhận thức các chi tiết kiến trúc phía trên mặt đứng của những công trình kiến trúc vòng quanh quảng trường là 24m.
Qua những nét khái quát về nguồn gốc và quá trình phát triển cũng giống như những nhân tố cấu thành quảng trường, bạn có thể định hình rõ vai trò và công năng của quảng trường trong không gian đô thị: Nếu coi một thành phố là 1 thực thể sống, thì các công viên xanh hay vườn hoa được coi như là những lá phổi của thân thể ấy còn quảng trường có thể xem như là trái tim, củng cố và duy trì sức sống cho thân thể đô thị.
Thay lời kết
Nhân tố xã hội của một đô thị phát triển vững chắc được khẳng định bởi sức khỏe cộng đồng, thái độ tích cực của dân cư đô thị trong các hoạt động tương tác xã hội. Điều đó chỉ với thể đạt được một khi bạn có thể tạo nên những không gian thu hút, hay nói theo cách khác, tạo nên hệ sinh thái lành mạnh để kích thích những hoạt động đó. Quảng trường là 1 trong những số những không gian như thế. Nhìn lại các thành phố Việt Nam, nhất là những thành phố lớn như thành phố Hà Nội và TP HCM, việc thiết kế và quy hoạch quảng trường trong không gian đô thị vẫn chưa được coi trọng và nhìn nhận 1 cách đúng mức. Những vị trí được xem là lý tưởng cho những hoạt động của dân cư lại thiếu các công trình dịch vụ, trong lúc những khu trung tâm dịch vụ giải trí thì không gian trống lại quá nhỏ về S diện tích và manh mún, hời hợt về mặt thiết kế kiến trúc để được xem là quảng trường. Không chỉ có vậy, hiện tại, tình trang ô nhiễm và độc hại hệ sinh thái đã trở nên báo động do sự tăng thêm phương tiện giao thông cá nhân, khi mà vận tốc đô thị hóa ngày 1 nhanh, khu vực đô thị trung tâm trở nên ngày 1 nén, tỷ lệ xây dựng tăng, con người cần nhiều hơn những không gian an toàn, thu hút cho các hoạt động xã hội mà những không gian công cộng rất hiếm hiện hữu không đủ tầm để giải quyết các nhu cầu đó. Từ hiện trạng đó, chúng ta còn trông chờ gì nữa mà hoàn toàn không bắt đầu ý nghĩ nghiêm túc về sự việc quy hoạch và kiến thiết những quảng trường sinh động, thu hút, những khoảng hở quý giá tạo lên sức sống đô thị ?
Lê Hà Phong
Sinh viên chuyên ngành quy hoạch đô thị, Viện Khoa học vận dụng đất nước Lyon -CH Pháp
Theo Ashui
Tài liệu tham khảo:
- A.E.J. Morris, 1994, History of urban form before the industrial revolution, tr191 – tr207
- Basak Zeka, 2011, The human meaning of urban squares, 263tr
- Cliff Moughtin, 2003, Street & Square, tr87 – tr126
- Development type – Urban squares, www.healthyplaces.org.au
- Duncan Corrigal, 2011, Outside the square, 63tr
- Great public spaces: Piazza del Campo, www.pps.org
- Henry Shaftoe, 2008, Convivial urban spaces: Creating effective public spaces, tr73 – tr80
- Jan Gehl, 1987, Life between buildings, 216tr
- tiến sỹ.KTS. Nguyễn Quốc Thông , 2000, Lịch sử xây dựng đô thị cổ đại và trung đại phương Tây, tr231 – tr249
Thêm nhiều thông tin hấp dẫn với BdsNhaDat.com.vn ✔
T.H