Quy hoạch công trình hạ tầng xã hội – Cơ sở hình thành cấu trúc Đô thị bền vững ⭐


Cấu trúc đô thị là “Bộ khung” hạ tầng kỹ thuật để đảm bảo cho công năng hạ tầng xã hội (HTXH) đô thị hoạt động hiệu quả. Nhận định đúng vai trò, nhiệm vụ, hiện trạng của công tác quy hoạch hạ tầng xã hội (HTXH) đô thị, các cơ sở khoa học quy hoạch nhằm đề nghị được các phương pháp tốt trong quy hoạch hệ thống công trình HTXH thích hợp với các nhu cầu và các hoạt động đô thị là cốt lõi của một cấu trúc đô thị phát triển vững bền.

Hinh 1: Cấu trúc thành phố Singapore – 1971; Các khu công năng đô thị được gắn kết bởi hệ thống giao thông (Nguồn: Tham khảo tư liệu)

Tổng quát về quy hoạch hạ tầng xã hội (HTXH) đô thị

1. Hạ tầng xã hội đô thị là gì?

Theo các văn bản quản lý về quy hoạch và xây dựng đô thị của Việt Nam, các khái niệm liên quan trong bài viết được hiểu như sau:

– Hạ tầng xã hội đô thị được hiểu là hệ thống các công trình phục vụ cho các nhu cầu và dịch vụ của nhân dân, của bộ máy hành chánh và các cơ sở sản xuất. Hệ thống công trình này gồm có: Hành chánh, y tế, giáo dục, văn hóa, thể dục – Sport thể thao, dịch vụ thương mại, cây cối công viên và các công trình khác (trừ các công trình hạ tầng kỹ thuật đô thị), được tổ chức cân đối và gắn kết với nhau trong không gian đô thị.

– Quy hoạch hạ tầng xã hội là việc tổ chức hệ thống không gian công trình HTXH trong địa giới hành chánh của một khu vực thị trấn, huyện, thị xã, thành phố, của một tỉnh hoặc liên tỉnh nhằm tạo lên hệ sinh thái dịch vụ cực tốt cho tất cả những người dân và thích hợp với yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội trong từng thời kỳ của địa phương và luật lệ kinh tế kỹ thuật khác.

2. Khái quát hiện trạng quy hoạch hạ tầng xã hội đô thị

Trong tiến trình quy hoạch, xây dựng và phát triển đô thị, việc tổ chức không gian sinh sống cho con người yêu cầu phải đồng bộ cả về hạ tầng kỹ thuật (HTKT) và HTXH. Việc đáp ứng các nhu cầu hạ tầng kỹ thuật như: đi lại giao thông, cấp nước, thoát nước, cấp điện,… là những nhu cầu “vật chất” quan trọng, cần đi trước. Các nhu cầu về hạ tầng xã hội như: Học tập, chữa bệnh, văn hóa, Sport thể thao,… là những nhu cầu khẩn cấp, mặc dù thế thường phải xây dựng  sau, điều ấy cũng thích hợp với lô gích “Đường, điện – Trường, trạm”. Nói như thế để phân tích và lý giải cho việc lập tiến độ xây dựng các công trình HTXH thường  đi sau các các công trình hạ tầng kỹ thuật đô thị.Về tổng thể thì việc phát triển đô thị phải đồng bộ cả về hạ tầng kỹ thuật và HTXH mới đạt yêu cầu.

Hình 2: Hệ thống cây cối thành phố gắn kết với các cây cối và mặt nước tự nhiên – Thành phố Minsk. (Nguồn; Quy hoạch xây dựng phát triển đô thị – Nguyễn Thế Bá)

Ở Việt Nam, do điều kiện kinh tế phát triển còn hạn chế cho nên việc đầu tư xây dựng công trình hạ tầng xã hội thường xây dựng sau thời điểm đô thị tạo thành, hoặc do nhiều nguyên nhân mà chính quyền cùng các chủ đầu tư chưa quan tâm đầu tư xây dựng đồng bộ. Thực tiễn điều này đã bị lạm dụng, đã có quan niệm các công trình HTXH đầu tư sau, hệ lụy của chính nó là hầu như tất cả các KĐT chỉ coi trọng đến công tác xây dựng HTKT và nhà ở, còn các công trình dịch vụ HTXH thì không được quan tâm xây dựng, không đáp ứng được cuộc sống tối thiểu của cư dân lúc tới sinh sống. Hiện tại, với tư duy phát triển vững bền, việc xây dựng đồng bộ giữa HTKT và HTXH đô thị là yêu cầu tất yếu của những Đất nước văn minh. Tại Việt Nam, một vài KĐT đã chứng tỏ độ khả thi của việc phát triển đô thị đồng bộ đã mang tới hiệu quả kinh tế và xã hội.

Các văn bản luật pháp của Việt Nam về quy hoạch và phát triển đô thị đều sở hữu các yêu cầu về quy hoạch và phát triển công trình HTXH đô thị, mặc dù thế các văn bản này mới dừng ở yêu cầu và xác định hướng, chưa cụ thể thành các luật lệ. Nếu mang các luật lệ về HTKT so với các luật lệ về HTXH thì mới thấy sự chênh lệch nhau về  content nội dung các tiêu chuẩn, quy chuẩn, luật lệ content nội dung thuyết minh và bản vẽ quy hoạch trong đồ án quy hoạch đô thị. Thiếu các luật lệ cụ thể, khả thi là lý do căn bản và bất cập trong việc quy hoạch không gian HTXH đô thị, dẫn đến độ khả thi của đồ án quy hoạch đô thị tại Việt Nam quá thấp. Vì vậy, quá trình triển khai thường xuyên phải tùy chỉnh các công trình HTXH quan trọng “cốt lõi” của đô thị, dẫn đến thay đổi cấu trúc đô thị, gây ra sự “chệch hướng” quá trình quy hoạch, xây dựng và phát triển đô thị.

Trong văn bản luật có luật lệ content nội dung quy hoạch công trình  HTXH: “Định rõ mục đích, động lực phát triển, quy mô dân số, đất đai, định mức về hạ tầng xã hội, hạ tầng kỹ thuật; mô hình phát triển, xác định hướng phát triển không gian nội thị và khu vực ngoại thị, trung tâm chính trị – hành chánh, dịch vụ, thương mại, văn hoá, giáo dục, đào tạo, y tế, công viên xanh, thể dục, Sport thể thao cấp đô thị; quy hoạch hệ thống công trình hạ tầng kỹ thuật khung phía trên mặt đất, trên cao và ngầm dưới đất; nhận định hệ sinh thái sách lược; kế hoạch ưu tiên đầu tư và nguồn lực triển khai”. Đối với đồ án quy hoạch chi tiết văn bản cũng ghi rõ: “Định rõ định mức về dân số, hạ tầng xã hội, hạ tầng kỹ thuật và yêu cầu tổ chức không gian, kiến trúc cho toàn vùng quy hoạch; sắp đặt công trình hạ tầng xã hội thích hợp với nhu cầu sử dụng; định mức sử dụng đất và yêu cầu về kiến trúc công trình đối với từng miếng đất”. Trong content nội dung (thuyết minh và bản vẽ) về quy hoạch xây dựng (theo Nghị định 44/2015/NĐ-CP) phần content nội dung của công trình HTXH được phối hợp vào phần quy hoạch không gian, phần HTKT được tách riêng phần chi tiết content nội dung của từng loại công trình. Content nội dung thuyết minh và bản vẽ của những công trình HTXH cũng không có luật lệ cụ thể cho mỗi loại công trình. Thực ra thì các content nội dung quy hoạch HTXH có nghiên cứu, mặc dù thế chỉ dừng ở mức độ quy hoạch hệ thống và địa điểm (lý thuyết hệ thống, địa điểm kha khá), chưa làm rõ công năng, quy mô, ranh giới và bán kính phục vụ.

Hình 3: Sắp xếp các công trình HTXH theo phương pháp phân tán. (Nguồn; Quy hoạch xây dựng phát triển đô thị – Nguyễn Thế Bá)

Việc quy hoạch các công trình HTXH hiện tại còn bị ảnh hưởng bởi kinh tế thị trường quốc nội và quốc tế (chẳng hạn như hệ thống các bệnh viện, trường học quốc tế và tư nhân tại các thành phố lớn như thành phố Hà Nội và TP Hồ Chí Minh). Sự ảnh hưởng của kinh tế xã hội đến việc dự báo và phân bố các công trình HTXH cũng chưa được cập nhật, còn thiếu các văn bản chỉ dẫn triển khai trong những đồ án quy hoạch chung và quy hoạch chi tiết đô thị. Việc dự báo theo giải pháp cổ truyền, theo khu vực hành chánh, địa phương không phối hợp với nền kinh tế thị trường và quốc tế đã làm tăng tính vô lý cho quy mô cũng như càng bị động trong việc tổ chức bố trí mạng lưới các công trình HTXH.

Kinh nghiệm trên thế giới và tại Việt Nam cho thấy trong tiến trình phát triển đô thị, chúng ta  đừng nên thay đổi cấu trúc tổng thể (trung tâm hành chánh – chính trị và trung tâm văn hóa cốt lõi), mà chỉ nên hướng tới rộng mở một vài khu trung tâm dịch vụ, khu nhà ở vệ tinh. Thành phố London, New York, Paris và Washington đều là những cấu trúc đô thị phát triển vững bền cả về kinh tế, xã hội và hệ sinh thái, vì nó đã lưu giữ được trung tâm cốt lõi (hành chánh đô thị và dịch vụ đặc thù), việc phát triển thành phố là sự rộng mở ra các đô thị chung quanh (vệ tinh) chứ ít khi thay đổi cấu trúc nguyên bản của đô thị gốc. Tại Việt Nam đã có rất nhiều đô thị đang biến đổi các trung tâm đô thị được xây dựng từ rất nhiều đời thành các hotel và TT TM vì nhiều nguyên nhân, thay đổi điều ấy có nghĩa là việc lập lại cấu trúc mới cho đô thị phát triển thích hợp, đây thực sự là điều đáng quan ngại không chỉ cho bảo tồn mà còn dễ bị tổn thương đến sự tiến lên vững bền của đô thị trong tương lai.

3. Nhận định chung

Trong những luật lệ quản lý nhà nước, các đồ án quy hoạch vùng, quy hoạch chung đô thị, quy hoạch khu công năng đặc điểm và quy hoạch chi tiết đều sở hữu yêu cầu. Tuy vậy, các content nội dung luật lệ cụ thể cho công trình HTXH không cụ thể như HTKT đô thị. Các công trình HTXH đô thị có công năng quan trọng là “tạo thị”, khi lập quy hoạch đô thị nếu như không sắp đặt được cụ thể địa điểm, S diện tích, ranh giới và phương án tổ chức không gian công trình trên map bản đồ quy hoạch là khó khả thi.

Việc dự báo quy mô tại các đồ án quy hoạch đô thị thường tính gộp (mật độ % đất đai) cho những công trình HTXH, điều ấy sẽ gây cản trở cho việc phân bố khi lập đồ án quy hoạch. Trên thực tiễn, các công trình được sắp đặt theo nhóm hoặc biệt lập, bởi thế quy mô này có khả năng sẽ bị ảnh hưởng bởi các điều kiện về quy mô dân số, địa hình tự nhiên, kinh tế và các ảnh hưởng khác.

Điểm lại các văn bản pháp quy về lập và quản lý quy hoạch phát triển đô thị, content nội dung lập quy hoạch công trình HTXH đô thị trong những đồ án, cũng tựa như các bất cập trong thực tế xây dựng phát triển các công trình HTXH đô thị, cho thấy sự nhất thiết phải có cách tiếp xúc mới, cách làm mới trong việc xây dựng quy chuân, quy chuẩn, công tác quản lý và lập quy hoạch đô thị của Việt Nam.

Hình 4: Sắp xếp các công trình HTXH theo phương pháp hỗn hợp

Hoàn cảnh, mục đích và yêu cầu quy hoạch HTXH đô thị

1. Hoàn cảnh ảnh hưởng

Việt Nam trong thời kỳ biến đổi về cơ cấu kinh tế đô thị, cơ chế quản lý đô thị, các ảnh hưởng của chuyển đổi khí hậu, của sự hội nhập kinh tế thế giới, … cấu trúc công năng đô thị, nông thôn có khả năng sẽ bị ảnh hưởng và thay đổi là tất yếu.Trong hoàn cảnh các yếu tố của cấu trúc và các mối gắn kết căn bản nội đô đang bị xáo trộn, vấn đề là cuộc sống của cư dân vẫn phải luôn được đảm bảo bảo. Đó cũng chính là 1 trong những nguyên tắc của phát triển vững bền. Bộ khung xương của đô thị phải có những sự thích ứng, mềm dẻo nhất định. Một cấu trúc đô thị tuy có sự thay đổi nhưng vẫn phải đáp ứng được sự tiến lên, không gây ra nhiều xáo trộn về hệ sinh thái sống và môi trường không gian cảnh quan đô thị.

Quy hoạch đô thị, nông thôn đang diễn ra và thay đổi mạnh mẽ từ: Nhận biết, ý kiến, content nội dung và giải pháp, gắn kết nghiêm ngặt các hoạt động nghiên cứu – lập quy hoạch – quản lý đầu tư – khai thác đô thị,… Các hoạt động này được triển khai trong một “chuỗi” thống nhất, nhằm nâng cao hiệu quả chất lượng của đồ án qui hoạch, tạo lên một cấu trúc không gian đô thị và nông thôn hòa nhập với nhau, tạo thành hệ sinh thái đáng sống.

2. Mục đích quy hoạch hạ tầng xã hội

Quy hoạch HTXH đô thị có nhiệm vụ tạo điều kiện tổ chức tốt cuộc sống và mọi hoạt động hằng ngày của cư dân, tạo cơ cấu hợp lý trong việc phân bố cư dân và sử dụng đất đai đô thị, tổ chức việc xây dựng các khu ở, khu trung tâm và dịch vụ công cộng, khu nghỉ ngơi, giải trí, cũng như việc đi lại giao tiếp của cư dân. Không chỉ có thế, nó còn tạo hệ sinh thái sống, môi trường không gian cảnh quan trong sạch đẹp, an toàn, tạo mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên thân thiết, tạo điều kiện modern hiện đại hóa cuộc sống của cư dân, phục vụ con người phát triển 1 cách toàn diện. Những mục đích căn bản được là:

– Thỏa mãn nhu cầu sử dụng nhà ở, công trình y tế, giáo dục, văn hoá, Sport thể thao, thương mại, công viên, cây cối, mặt nước và công trình HTXH khác;

– Nâng cao và đáp ứng toàn diện những nhu cầu của những hoạt động kinh tế, đóng góp phần nâng cao hiệu quả năng suất lao động;

– Xác lập và phát triển hài hoà, cân đối và đồng bộ, thích hợp với sự tiến lên của những cơ cấu thành phần khác trong vùng;

– Giảm đi bớt sự chênh lệch trong việc cung ứng và trang bị cơ sở hạ tầng giữa đô thị và nông thôn, giữa những vùng lãnh thổ;

– Đáp ứng các yêu cầu về hội nhập quốc tế và ứng phó với các ảnh hưởng của chuyển đổi khí hậu;

– Đảm bảo tính đồng bộ về không gian cảnh quan kiến trúc, hệ thống hạ tầng xã hội, hạ tầng kỹ thuật đô thị và không gian ngầm.

Hình 5: Sắp xếp các công trình HTXH theo phương pháp tập trung.

HTXH đô thị.

1. Nguyên tắc chung:

Dự báo được nhu cầu sử dụng cơ sở hạ tầng xã hội, xây dựng chiến lược phát triển HTXH, xác định các công trình đầu mối, mạng lưới, vị trí và quy mô mang tính chất vùng hoặc liên vùng.

Căn cứ vào dự báo dân số đô thị và nông thôn trong vùng (theo các đồ án Quy hoạch chung, quy hoạch phân khu hay quy hoạch chi tiết) ta có thể tính ra quy mô cho tổng thể và từng thể loại công trình HTXH dựa trên định mức được luật lệ tại các tiêu chuẩn, quy chuẩn và kinh nghiệm ngoài nước và trong nước;

Sự tăng trưởng dân số đô thị là sự tăng trưởng tổng hợp của khá nhiều thành phần khác gồm có tăng tự nhiên, tăng cơ học, tăng hỗn hợp và tăng của khá nhiều thành phần khác nữa bởi vậy quy mô tăng trưởng kinh tế đô thị là tổng của sự tăng trưởng các thành phần. Do vậy chúng ta nên dùng Giải pháp dự báo tổng hợp để tính toán cho những công trình HTXH.

2. Giải pháp định rõ quy mô công trình HTXH

– Giải pháp 1: Theo tiêu chuẩn quy hoạch đô thị về mật độ các loại đất nội đô để định rõ S diện tích tổng các công trình HTXH, đề nghị ý tưởng tổ chức không gian. Chú ý với cách định rõ quy mô này là không chuẩn xác vì quy chuẩn chỉnh cung ứng mức độ tổng thể theo quy mô cấp đô thị, nên chỉ có thể nên để tham khảo cho giai đoạn nghiên cứu.

– Giải pháp 2: Theo tiêu chuẩn chỉnh tiêu cụ thể của từng loại đất cho công trình HTXH; Y tế (bệnh viện các loại, trung tâm y tế,… ), Giáo dục (nhà trẻ, mầm non, trường phổ thông nhiều cấp, Thể dục – Sport thể thao,… Tính được chi tiết quy mô từng hạng mục HTXH trên cơ sở đó sẽ nghiên cứu phối hợp hay phân ngành nhóm cho thích hợp với điều kiện của đô thị.

– Giải pháp 3 (phi tầng bậc): Được định rõ trên cơ sở nhu cầu của HTXH và các mối liên hệ kinh tế xã hội ở cấp đất nước và quốc tế. Trong trường hợp này cần suy xét đến xu thế đầu tư kinh tế xã hội, chủ động dự trữ hay lồng ghép quỹ đất đô thị trong quy hoạch cho việc các nhà đầu tư một vài thể loại công trình HTXH “xã hội hóa” đầu tư không tùy theo ngân sách đầu tư của  chính quyền đô thị.

Phương pháp quy hoạch hạ tầng xã hội đô thị.

1. Cấu trúc phân tán

Với các đô thị lớn đặc biệt, loại 1; Quy mô phục vụ lớn, bán kính phục vụ rộng, bởi thế cần phân ra các trung tâm nằm tại không giống nhau; Trung tâm hành chính- chính trị, Trung tâm giáo dục đào tạo, Trung tâm thể dục Sport thể thao, Khu trung tâm y tế gồm có các loại bệnh viện, các trung tâm Thương mại dịch vụ và các trung tâm chuyên ngành khác.

Đô thị đặc biệt lớn có thể tạo thành các đô thị vệ tinh như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh. Tính năng HTXH được phân chia và phân bố theo công năng của đô thị trung tâm và đô thị vệ tinh.

Phương án tổ chức hệ thống trung tâm HTXH TP Đô thị Hải Dương (Nguồn; Dự án Cup.cup – VIUP)

2.  Cấu trúc hỗn hợp (bán tập trung)

Với các đô thị loại 2, loại 3 có thể phối hợp thành các tổ hợp nhiều nhóm trung tâm HTXH: 1/ Hành chánh + Văn hóa. 2/ Giáo dục + Y tế. 3/ Cây cối + Sport thể thao. 4/ Thương mại dịch vụ, du lịch, … Các nhóm này được sắp đặt thành nhiều khu vực không giống nhau, bảo đảm bán kính phục vụ, điều kiện tự nhiên của đô thị đồng bằng, trung du và miền núi.

3. Cấu trúc tập trung

Các đô thị nhỏ loại 4, loại 5 với quy mô công trình phục vụ không lớn, bán kính phục vụ nhỏ, phương pháp tổ hợp trung tâm HTXH. Tất cả những công trình HTXH được sắp đặt trên một hay hai khu đất.

Giải pháp lập quy hoạch HTXH đô thị

1. Giải pháp tiếp xúc “quy hoạch sách lược” cho quy hoạch đô thị nói chung, quy hoạch HTXH nói riêng là phương pháp cực tốt đang được ứng dụng tại các nước văn minh. Giải pháp tiếp xúc này được Louis Albrechts định nghĩa là “Một quá trình chuyển đổi và tích hợp do khu vực công chỉ đạo nhưng là về sản xuất-xã hội-không gian, qua đó đề ra tầm nhìn/khuôn khổ để tham khảo, nêu lên luận chứng cho những hành động và giải pháp thực thi thống nhất nhằm chỉ ra hình dáng bên ngoài và quy mô mà một vị trí đang có hoặc có thể có”.

Bảo đảm độ khả thi các quy hoạch nói chung hay quy hoạch HTXH, về dài lâu nên tách quy hoạch sách lược HTXH riêng và quy hoạch không gian HTXH riêng là thích hợp với xu hướng modern hiện đại. Tuy vậy, trong giai đoạn hiện tại (quá độ) có thể suy xét dùng giải pháp tích hợp content nội dung của quy hoạch sách lược và quy hoạch không gian.

2. Content nội dung quy hoạch chia thành làm 3 bước: Quy hoạch sách lược – Quy hoạch không gian – Quản lý triển khai. Tuỳ thuộc vào loại HTXH quy hoạch để đề nghị các yêu cầu về content nội dung thích hợp, làm rõ các công việc dự định thực hiện để triển khai được các phần nhiệm vụ sẽ nghiên cứu trong đồ án quy hoạch như sau:

Bước 1: Xây dựng sách lược phát triển HTXH:

– Hiện trạng phát triển của HTXH của khu vực nghiên cứu.

– Định rõ các mục đích (tầm nhìn) phát triển của HTXH.

– Định rõ quy mô, tiến độ và ngân sách đầu tư HTXH (theo giai đoạn).

– Các điều kiện kinh tế và xã hội đáp ứng.

Bước 2: Xác định phương hướng phát triển không gian:

– Các cơ sở quy hoạch công trình HTXH.

– Các phương án (kịch bản) quy hoạch HTXH.

– Cấu trúc phân vùng, tuyến phát triển công trình HTXH.

– Địa điểm, quy mô, ranh giới và tổ chức không gian công trình HTXH.

– Xác định phương hướng phát triển hệ thống đảm bảo kỹ thuật.

– Các chương trình dự án đầu tư ưu tiên (theo giai đoạn).

Bước 3: Quản lý triển khai và quản lý giám sát:

Phân công các cơ quan quản lý và giám sát triển khai quy hoạch HTXH.

Kết luận và Đề xuất

Cuộc sống đô thị modern hiện đại càng nhất thiết phải có sự nhận định đúng vai trò của công trình hạ tầng xã hội đô thị trong mối liên hệ về công năng, không gian với các hạ tầng cơ sở khác, nhằm tạo dựng được một không gian đô thị tiện nghi, modern hiện đại và giầu bản sắc. HTXH là 1 căn cứ quan trọng  tạo thành cấu trúc công năng, như “linh hồn” tạo dựng nên đô thị phát triển vững bền.

Nhận định hiện trạng công trình HTXH đô thị từ vấn đề quan niệm, đến các luật lệ của thể chế, công tác lập quy hoạch, công tác quản lý quy hoạch, công tác đầu tư xây dựng công trình HTXH, cũng tựa như các bất cập trong thực tế xây dựng, khai thác và phát triển công trình HTXH đô thị, cho thấy sự nhất thiết phải có cách tiếp xúc mới, cách làm mới trong việc xây dựng tiêu chuẩn, quy chuẩn, công tác quản lý, lập quy hoạch công trình HTXH đô thị của Việt Nam.

– Quy hoạch đô thị nói chung và HTXH nói riêng đang diễn ra trong một hoàn cảnh mới,  buộc phải gắn kết nghiêm ngặt các hoạt động nghiên cứu – lập quy hoạch – quản lý đầu tư – khai thác đô thị,… Các hoạt động này được triển khai trong một “chuỗi” thống nhất, nhằm nâng cao hiệu quả chất lượng của đồ án qui hoạch cao hơn.

– Quy hoạch công trình hạ tầng xã hội cần định rõ được mô hình liên kết giữa hạ tầng xã hội với các công năng khác trong đô thị. Định rõ được các vùng chức năng chính , đề xuất được các yêu cầu, định mức, quy mô công trình hạ tầng xã hội phù hợp với các giai đoạn phát triển đô thị.

– Dự báo quy mô công trình hạ tầng xã hội trên cơ sở chiến lược phát triển hạ tầng xã hội, xác định các công trình đầu mối, mạng lưới, vị trí và quy mô mang tính chất vùng hoặc liên vùng. Ngoài những giải pháp dự báo bình thường, trong dự báo quy mô công trình HTXH cần phải có thêm giải pháp dự báo “phi tầng bậc” định rõ trên cơ sở nhu cầu và các mối liên hệ kinh tế xã hội ở cấp đất nước và quốc tế.

Việc phân cấp, phân nhóm công trình HTXH, định rõ bán kính phục vụ là cơ sở cho việc quy hoạch hệ thống HTXH đô thị với các phương pháp cấu trúc:

– Phương pháp phân tán cho những đô thị lớn đặc biệt, loại 1.

– Phương pháp hỗn hợp (bán tập trung) cho những đô thị loại 2, loại 3, có thể phối hợp thành các tổ hợp nhiều nhóm trung tâm HTXH.

– Phương pháp tập trung với các đô thị nhỏ loại 4, loại 5 với quy mô công trình phục vụ không lớn, bán kính phục vụ nhỏ.

Để có những quy hoạch mang độ khả thi cao, khắc phục các tồn tại như hiện tại, đề nghị:

– Thay đổi trong nhận biết của từ các nhà quản lý, các cán bộ làm quy hoạch đô thị về vai trò của công trình HTXH trong cấu trúc đô thị vững bền, coi các công trình HTXH là quyết định đến cấu trúc đô thị, chất lượng đô thị. Hạ tầng kỹ thuật là công trình đảm bảo cho cấu trúc HTXH hoạt động thông suốt.

– Nhà nước phát hành mới các tiêu chuẩn, quy chuẩn và các chỉ dẫn lập quy hoạch HTXH trong những đồ án quy hoạch đô thị, cũng tựa như các đồ án quy hoạch chuyên ngành HTXH cấp vùng, cấp tỉnh và các đô thị.

– Cần cách tân content nội dung quy hoạch HTXH cụ thể hơn cho việc triển khai thuận tiện không bị thay đổi tùy chỉnh làm tác động đến cấu trúc đô thị. Cách tân giải pháp quy hoạch HTXH theo hướng tiếp xúc sách lược nhằm nâng cao độ khả thi của đồ án quy hoạch HTXH.

*Tài liệu tham khảo:

1/ Cơ quan phát triển quốc tế của Nhật Bản Jaika & VIAP, Dự án Xây dựng Năng lực Lập Quy hoạch và Quản lý đô thị (CUP CUP). thành phố Hà Nội, 2010.

2/ Phạm Sỹ Liêm, Tổng quát xu thế quy hoạch trên thế giới và viễn cảnh hệ thống quy hoạch Việt Nam. thành phố Hà Nội, 2014.

3/ Nguyễn Thế Bá, Quy hoạch xây dựng phát triển đô thị. Nhà xuất bản xây dựng , thành phố Hà Nội năm 2004.

4/ Phạm Kim Giao, Quy hoạch vùng, nhà xuất bản xây dựng, thành phố Hà Nội -2000.

5/ Luật xây dựng 2014 số 50/2014/QH13.

6/ Luật quy hoạch đô thị -số 30/2009/QH12.

7/ Nghị định của Chính phủ về quy hoạch xây dựng.

8/ Quy chuẩn quy hoạch xây dựng Việt Nam.

9/ Thông tư chỉ dẫn triển khai Luật, nghị định lập quy hoạch đô thị.

tiến sĩ. KTS Nguyễn Xuân Hinh

(Bài đăng trên TCKT số 02 – 2017)

Thêm nhiều thông tin hấp dẫn với BdsNhaDat.com.vn



T.H

Tham gia thảo luận

So Sánh BĐS

So sánh