Thiết kế đô thị cảnh quan thích ứng với lũ lụt tại TP Cần Thơ ❗


Thời nay, TP Cần Thơ đang phải đối diện với những thử thách nghiêm trọng của quá trình đô thị hóa. Các tổng quy hoạch hiện nay đang bất đồng trực tiếp với tính thích ứng bản địa vốn được tạo thành từ hàng trăm năm qua. Trước những thử thách từ Chuyển đổi khí hậu (BĐKH) đang diễn ra tại TP Cần Thơ, câu hỏi là: Cách thức nào có thể thật sự giải quyết được những vấn đề cốt lõi và đạt được các phương pháp vững chắc trong phát triển đô thị? Chúng tôi cho rằng việc nghiên cứu cẩn trọng về lãnh thổ và đặc thù phong cảnh khu vực, phối hợp với quản lý vững chắc nguồn nước địa phương sẽ là đóng góp thêm phần giải quyết cho các xung đột gây ra bởi quá trình modern hiện đại hóa, sai trái và suy thoái trong hoàn cảnh hiện tại.

TP Cần Thơ nằm giữa ngã ba sông Hậu và sông Cần Thơ, địa điểm trung tâm vùng ĐBSCL. Thành phố cách biển Đông 75 kilomet về phía Đông, cách TP Hồ Chí Minh 169 kilomet về phía Bắc, là 1 trong năm thành phố trực thuộc trung ương của Việt Nam với dân hàng đầu.242.270 người (2014), là đầu mối quan trọng về giao thông vận tải và giao thương quốc tế của vùng ĐBSCL và của cả Việt Nam. Đất đai tự nhiên của TP Cần Thơ (năm 2010) khoảng 140.895 ha (không kể mặt nước sông Hậu) chiếm 3,50% S diện tích tự nhiên vùng ĐBSCL và 0,43% S diện tích tự nhiên cả nước. Hệ thống đô thị của TP Cần Thơ hiện hữu gồm 1 đô thị trung tâm với 5 quận nội thành và 05 thị trấn thuộc huyện. S diện tích tự nhiên (DTTN) các đô thị toàn TP Cần Thơ khoảng 47.012,10 ha chiếm 33,37% DTTN của thành phố.

Phạm vi nghiên cứu TPCT trong lãnh thổ Việt Nam và vùng ĐBSCL

Những thử thách trong quy hoạch và phát triển đô thị của TP Cần Thơ hiện tại

1. Những thử thách từ lũ lụt và BĐKH

Tại ĐBSCL và TP Cần Thơ, ảnh hưởng của BĐKH chủ yếu sẽ thể hiện ở mực nước dâng do mực nước biển dâng cao và lượng mưa gia tăng. Lũ lụt là 1 trong các khó khăn chính tác động đến các kế hoạch phát triển của TP. Hiện tại, thành phố phải đối diện với ba nguồn ngập lụt chính: Thứ nhất, mặc dầu cách bãi biển khoảng 75 kilomet (về phía Đông) nhưng TP Cần Thơ lại chịu tác động mạnh bởi triều cường, gây ngập úng đặc biệt nghiêm trọng khi thủy triều lên cao đỉnh điểm. Thứ hai, ngập lụt do lũ thượng nguồn sông Mekong trong mùa mưa, mùa lũ thường bắt đầu vào tháng 8 nối dài tới tháng 11 hàng năm. Thứ ba, ngập lụt do mưa lớn vì các bề mặt không thấm nước làm tăng lượng chảy tràn bề mặt. Không chỉ có vậy, hiện tượng xói mòn bờ sông cũng chính là một vấn đề nghiêm trọng, đặc biệt đối với những hộ dân sống trong những khu định cư xuôi theo các bờ sông. Theo thông báo chính thức của Bộ Hệ sinh thái và Tài nguyên Việt Nam, với địa hình và cơ sở hạ tầng hiện nay của Cần Thơ, dự báo mực nước biển dâng thêm 1m sẽ làm ngập trực tiếp 19% S diện tích của toàn thành phố.

Xu thế nhiệt độ và mực nước dâng trên sông của TPCT qua các năm

2. Quy hoạch đô thị thiếu quan tâm đến bản sắc phong cảnh địa phương

Quá trình đô thị hóa nhanh chóng hiện tại có thể đe dọa nghiêm trọng tới sự độc đáo và giá trị bản sắc đô thị của TP Cần Thơ, đặc biệt là mối quan hệ thâm thúy giữa cảnh quan châu thổ và đô thị. Mối quan hệ hữu cơ giữa đất và nước sẽ bị thay đổi trầm trọng bởi sự tăng lên rộng khắp của bề mặt bê tông hóa (giảm đáng kể khả năng hấp thụ nước lũ tự nhiên của lãnh thổ) và đồng thời tăng lên tác động của BĐKH (ngập lụt và phèn hóa đất đai). Hiện tại, Cần Thơ là 1 trung tâm nông nghiệp quan trọng của ĐBSCL, trong đó cuộc sống đô thị và nông thôn xen lẫn và lệ thuộc lẫn nhau. Các vườn cây ăn trái là yếu tố thiết yếu đối với nền kinh tế và bộ mặt riêng của thành phố. Nhưng sự rộng mở đô thị đã dẫn tới biến đổi lớn về sự việc sử dụng đất, tạo sự xáo trộn của phong cảnh giữa khu vực đô thị và nông thôn. Các vườn cây ăn trái hiện có sẽ có nguy cơ giảm đi và bị chia tách nhiều hơn. Các nhân tố phong cảnh chính tạo thành cấu trúc lãnh thổ, có thể sẽ dẫn dắt quá trình đô thị hóa tại TP Cần Thơ chính là mạng lưới đường thủy khổng lồ (sông tự nhiên và kênh đào) và địa hình (quyết định đến việc sử dụng đất cụ thể). Tuy vậy, QHĐT hiện tại chưa coi trọng tới các lý luận về nền tảng phong cảnh hiện có. Việc thiếu cấu trúc không gian theo tầng bậc rõ nét và thiếu thứ tự ưu tiên cho phát triển khiến quá trình đô thị hóa diễn ra ở gần như tất cả khắp mọi nơi.

Thực trạng ngập lụt hiện tại (hình bên trái) và dự báo tác động của lũ lụt – xâm nhập mặn khi mực nước biển dâng 50 cm (hình bên phải) tại ĐBSCL. Nguồn: Tham khảo kịch bản của OSA/ WIT/ LATITUDE (2010).

3. Đô thị hóa đang bất đồng với tính thích ứng bản địa

Trong suốt quá trình lịch sử hình thành, hệ thống kênh rạch tự nhiên có vai trò chủ đạo, dẫn dắt phong cảnh vùng đồng bằng châu thổ. ĐBSCL có một hệ thống đường thủy kéo dài và rộng, có giá trị lịch sử trong việc phân bố lãnh thổ. Yếu tố nước đã tạo hình cho vùng châu thổ, cũng như đóng vai trò quan trọng trong giao thông, thủy lợi và thoát nước. Đê kè và dải đất cao cho phép cung cấp một diện tích đất lớn hơn dành cho mùa màng và cây ăn trái. Các điểm người dân cũng được phân tán cho phép nông dân tiếp cận với ruộng đồng nhiều hơn. Như vậy, tính năng động và phức tạp trong cảnh quan của ĐBSCL đã được tạo ra bởi một mô hình phân tán có kiểm soát với các điểm nút đô thị thường xuyên là quan trọng nhất. Các thành phố và môi trường cảnh quan tại ĐBSCL đã tồn tại hàng thế kỷ trong một sự cân bằng rắc rối phức tạp, các cấu trúc lệ thuộc lẫn nhau giữa nước và đất, bề mặt thấm nước và không thấm nước, toàn bộ được tổ chức bởi các hệ thống thủy văn để quản lý nước và ổn định đất.

Thực trạng phong cảnh của TP Cần Thơ hiện tại (hình ở trên) và quy hoạch hướng đến một thành phố dọc sông Hậu năm 2006 (hình ở dưới). Phát triển đô thị theo nguyên lý này sẽ phá vỡ gần như tất cả hệ thống phong cảnh hiện nay. Nguồn: Viện – quy hoạch đô thị và nông thôn miền Nam (SIURP) (2011).

Tuy vậy, bản sắc đô thị bản địa của Cần Thơ đang bị đe doạ nghiêm trọng bởi quá trình đô thị hóa bất hợp lý. Sự thay đổi về cấu trúc lãnh thổ đã ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng hấp thụ của phong cảnh thấm nước tự nhiên. Hệ quả của sự thay đổi mối đối sánh giữa đất và nước là sự chuyển dịch về căn bản từ cộng đồng xã hội gắn liền với nước sang cộng đồng xã hội gắn liền với cơ sở giao thông, kéo theo đấy là sự thay đổi căn bản về tổ chức không gian của khu vực. Tại TP Cần Thơ, việc san lấp vô ý thức các vùng đất thấp (cao thêm tới 2-2.5m) và số lượng các bề mặt không hấp thụ được nước gia tăng dẫn đến những hậu quả đi cùng là nước mưa trôi đi nhanh hơn và mực nước ngầm đang xuống thấp dần. Sự đi lên mất kiểm soát của đô thị đang bất đồng trực tiếp với tính thích ứng bản địa đang câu hỏi về những cách tiếp xúc mới trong quản lý nguồn nước tại TP Cần Thơ.

Sự thay đổi giữa cấu trúc giữa đất và nước khiến tổ chức không gian của TPC Cần Thơ thay đổi
Nguồn: Nemcova/Wust 2008

Sách lược thiết kế đô thị phong cảnh thích ứng với lũ lụt tại TP Cần Thơ

Những sáng kiến tại Cần Thơ là đề nghị một mô hình đô thị phong cảnh với cùng một cấu trúc xen lẫn rõ nét về địa mạo, thủy văn, mảng xanh và điều kiện đất đai. Hình thái đô thị mới gắn với phong cảnh để bảo tồn tài nguyên nước, trữ nước, thoát nước và xử lý nước, đồng thời phục vụ sản xuất nông nghiệp. Những đề nghị sách lược phong cảnh đô thị được xem như 1 động lực giúp thành phố có thể thích ứng được với điều kiện lũ lụt trong hoàn cảnh mới.

1. Tổ chức lãnh thổ và phong cảnh

a. Tái cấu trúc trở về một đô thị sông nước

Map bản đồ phân tích chi tiết thực trạng tổ chức lãnh thổ của TPCT. Nguồn: SIURP (2011

Sự đi lên tương lai của Cần Thơ được xác định phương hướng như 1 trung tâm vùng chạy dọc phía bờ Nam sông Hậu. Đây là 1 thời cơ để Cần Thơ cơ cấu lại mối liên hệ sông nước vốn có của mình để trở lại phía bờ sông Hậu. Tuy vậy, để xác định phương hướng này thêm mức khả thi, điều quan trọng là các KĐT (khu đô thị) dự định không được kết mảng thành một vùng đô thị khổng lồ bên sông, điều ấy khiến thành phố phát triển hỗn loạn, thiếu bản sắc. Tầm nhìn của TP Cần Thơ là TP Sông nước có liên lạc tới việc phối kết hợp các nhịp điệu khác nhau của sông Hậu theo ba cách. Cách đầu tiên, định rõ cơ cấu phân bố của đô thị, thay cho một TP trải dọc liên tiếp theo bờ sông Hậu, Cần Thơ nên được phát triển thành một chuỗi trung tâm các khu đô thị với bản sắc riêng của mình. TP rộng mở và vùng gần kề của chính nó được quy hoạch thành một tập hợp những trung tâm với những đặc thù và quy mô không giống nhau, dựa trên sự tương tác giữa mạng lưới hạ tầng và môi trường (cây cối và mặt nước). Cách thứ 2, sự xen lẫn giữa những khu vực đô thị và phong cảnh mở được nhấn mạnh thêm bằng các cù lao trên sông Hậu, đề nghị ở đây là không thay đổi trạng thái tự nhiên vốn có của chúng. Sau cùng, nhịp điệu của những nhánh sông vuông góc của sông Hậu (sông Cần Thơ, Ô Môn…) là 1 nét đặc thù quan trọng của bản sắc sông nước của TP Cần Thơ. Những nhánh sông và các kênh chính này kết nối vùng phong cảnh nông thôn phía Nam với sông Hậu, và là nhân tố quan trọng trong việc cấu trúc lại lãnh thổ. Các đường thủy này còn có thể được coi như xương sống hay ranh giới cho những khu đô thị hiện hữu và tương lai.

b. Tích hợp phong cảnh nông nghiệp để xây dựng một thành phố miệt vườn

Một trong các nhân tố bản sắc nổi trội nhất của Cần Thơ là mạng lưới phong phú các loại cây ăn trái gắn với mạng lưới đường thuỷ và địa hình phong cảnh. Cây ăn trái không những quan trọng trong việc cung ứng lương thực trong vùng mà còn là tiềm năng và sản phẩm của mối liên hệ kinh tế – sinh thái và nông nghiệp – du lịch. Là tài sản lớn về mặt sinh thái và kinh tế, vườn cây ăn trái đóng một vai trò then chốt trong sách lược tạo dựng phong cảnh của TP. TP và môi trường cảnh quan đã tồn tại hàng thế kỷ trong một sự cân bằng rắc rối phức tạp, các cấu trúc lệ thuộc lẫn nhau giữa nước và đất, giữa bề mặt thấm nước và không thấm nước – toàn bộ được tổ chức bởi các hệ thống thủy văn hợp lí để quản lý nước và ổn định đất. Mức độ ngập lụt rõ nét là nhân tố quyết định mục tiêu sử dụng đất (sản xuất hay trú ngụ, an toàn hay không thực sự an toàn…). Việc nghiên cứu thận trọng về lãnh thổ hiện nay sẽ cung ứng những gợi nhắc về một phương án thay thế việc lấp các vùng đất thấp 1 cách bừa bãi.

Do vậy, để xây dựng một “thành phố miệt vườn”, thiết kế đô thị dựa trên nguyên lý phong cảnh nông nghiệp hiện có là hết sức cần thiết. Sự lệ thuộc lẫn nhau giữa những vùng đất được tôn nền và các kênh thuỷ lợi tỏ ra thích hợp với địa hình trung bình ở Cần Thơ (giả dụ như các dải đất hai bên sông nơi không đủ cao độ để dành riêng cho đô thị hoá sẽ được phát triển thành các hành lang cây ăn trái). Tính liên tiếp của phong cảnh không những quan trọng ở quy mô toàn thành phố, mà còn quan trọng trong sự phối hợp giữa đô thị và thiên nhiên 1 cách vững chắc tại các KĐT mới. Đề nghị sách lược sinh thái nhấn mạnh một mạng lưới kết nối cây cối – mặt nước chạy xuyên vào đô thị, tạo thành một hạ tầng sinh thái rộng khắp trong tổng thể đô thị. Như thế, mạng lưới cây ăn trái có thể trở thành một yếu tố giá trị trong việc tổ chức phong cảnh và tái cấu trúc khu vực.

Những khu vực chưa xây dựng của thành phố có thể trở thành những vườn cây khổng lồ. Những vườn cây mới có thể trở thành một thành phần quan trọng trong hệ thống các không gian xanh công cộng trong khu vực trong đô thị và các khu rộng mở của thành phố – gắn liền thành thị với nông thôn, tạo thành nhiều ích lợi về sinh thái. Việc trồng rừng (hay các vườn cây ăn trái) có thể được phát triển kinh qua “lâm nghiệp xã hội”, trong đó đất đai không được sử dụng và đất hoang sẽ được trồng cây, duy trì và thu hoạch cho ích lợi kinh tế với sự tham dự của cộng đồng trong việc quản lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên.

Tích hợp phong cảnh nông nghiệp (bên trái) vào hạ tầng xanh đô thị (bên phải) nhằm tạo thành hình thái thích ứng mới của TPCT. Nguồn: SIURP (2011)

2. Xây dựng cấu trúc đô thị hoạt bát thích ứng với lũ

  • Thiết lập cấu trúc mạng lưới nước thích ứng với lũ lụt

Trong vòng nhìn về xây dựng cơ sở hạ tầng TP, mạng lưới nước có thiết kế để giải quyết các vấn đề về lượng nước (trữ nước bề mặt, thoát nước và thủy lợi) và chất lượng nước (xử lý nước thải), phối hợp với việc sử dụng mạng lưới nước cho những hoạt động giải trí và tạo nét đẹp phong cảnh. Vì thế, một loạt các lưu vực trữ nước và các công viên lọc nước được đề nghị. Các lưu vực sẽ khá cấp bách để phòng chống ngập úng và thu gom nước, chúng cũng làm chậm lại dòng chảy nước bề mặt, và theo đó làm giảm sự lưu chuyển xuôi dòng của nguồn nước lũ. Để lọc nước, các khu vực phong cảnh đất ngập nước được xây dựng và những hồ yếm khí được gọi là những phương pháp tối ưu nhờ tận dụng được những quy trình tự nhiên của môi trường bản địa.

Các hồ trữ nước phân tán và các bộ máy làm sạch nước tự nhiên được xây dựng làm bộ khung cho phát triển các khu người dân. Mạng lưới các công viên công cộng được tích hợp vào khu vực xử lý nước, chúng được đề nghị gắn liền với mạng lưới đường thủy tự nhiên; mỗi công viên bao gồm một hệ thống làm sạch nước, phối hợp với các công trình công cộng, các khu giải trí và vườn cây ăn trái. Những vườn cây ăn trái mới cũng có thể được trồng gần các khu người dân, tạo bóng mát đồng thời tăng cường kinh tế nông nghiệp và cản trở việc phát triển đô thị tự phát.

Kết nối giữa đô thị vào hệ thống không gian và môi trường ven sông
  • Cấu trúc đô thị hoạt bát và sẵn sàng chuyển qua cơ chế thích nghi với lũ.

Thiết lập các mối liên hệ giữa đô thị hóa và động lực thủy văn làm sao để cho chúng không loại bỏ lẫn nhau là nhiệm vụ của thiết kế và quy hoạch đô thị của TP Cần Thơ. Các giải pháp thiết kế có thể cho phép thành phố tính đến tình huống xấu và thích nghi với lũ lụt. Có thể kể tới phát triển các loại nhà ở với cấu trúc cột chịu lực với tầng trệt của tòa nhà có tính năng như 1 không gian mở, khi có lũ các không gian này cho phép chứa lũ và cũng để lũ thoát đi dễ dàng. Mặt khác, các căn nhà “lưỡng cư” nằm phía trên mặt đất, nhưng khi có lũ có thể nổi lên là những phương án cần tính đến trong thiết kế đô thị. Tuy vậy về dài hạn, tốt hơn hết là tất cả những tòa nhà trong khu vực trũng thấp cần phải được nâng lên hoặc có thể nổi trên mức nước lũ cao tối đa. Điều quan trọng nhất hiện tại là đừng nên đô thị hóa vào những vùng đất trũng có ẩn chứa nguy cơ ngập lụt.

Phối hợp giữa hạ tầng và động thái thủy văn để quản lý lũ lụt. Nguồn: SIURP (2011).

Kết Luận

Dấu vết phong cảnh thời nay của Cần Thơ, gồm có vùng lãnh thổ của cả đô thị và nông thôn đã phản ánh những tác động mạnh mẽ của những giai đoạn trước và trong thời kỳ thuộc địa, kinh qua kỹ thuật thủy công và các giải pháp tự nhiên trong kiểm soát nguồn nước. Thành phố và môi trường cảnh quan đã tồn tại hàng thế kỷ trong sự cân bằng rắc rối phức tạp, toàn bộ được tổ chức bởi hệ thống thủy văn hợp lí để quản lý nước và ổn định đất. Thời nay, nhiều thử thách buộc TP Cần Thơ phải thích ứng lại với những điều kiện mới, đô thị hóa và lũ lụt đang là 1 trong các thử thách lớn nhất tác động đến mục đích phát triển vững chắc của thành phố. Nghiên cứu cẩn trọng về tổ chức lãnh thổ và phong cảnh khu vực là cơ sở để giải quyết những thử thách mới. Hướng phát triển tiếp nối của TP Cần Thơ cần đẩy mạnh mối liên hệ tương tác giữa những nhân tố phong cảnh, cơ sở hạ tầng và đô thị hóa. Trong đó, xây dựng một hệ thống phong cảnh gắn với cơ sở hạ tầng và động thái thủy văn sẽ là nền tảng cho hình thái mới của TP Cần Thơ – Đô thị Phong cảnh – Đô thị Sông nước. Như thế, thiết kế đô thị sẽ đóng một vai trò quan trọng trong việc biến đổi sang mô hình thích ứng với lũ của thành phố. Phát triển các ưu thế của TP Cần Thơ như phong cảnh nông nghiệp trù phú hay hạ tầng nước sẵn có chính là cách thích ứng với lũ lụt hiệu quả tốt nhất.

TP Cần Thơ quy tụ nhiều tiềm năng để trở thành một thành phố thích ứng với lũ lụt. Do vậy, nhiệm vụ của những nhà thiết kế đô thị, các nhà sinh thái học cần hợp tác nhiều hơn để nghiên cứu đưa lũ trở thành nguồn tài nguyên cho thành phố.

Nguyễn Văn Long – Đại học Nông Lâm TP HCM
Mai Văn Trầm – Đại học Cần Thơ
(Bài đăng trên TCKT số 11-2017)

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. SIURP (Southern Institute for Urban and Rural Planning) (2011). Proposed revision of Cantho’s 2030 masterplan, Can Tho (2011).
  2. GSO (2010) General Statistical Offce of Vietnam. Retrieved from 2009 Population and Housing Census, Vietnam: http:// www.gso.gov.vn/default_en.aspx?tabid=515&idmid=5&ItemID=10799
  3. Kelly SHANNON, Annelies DE NIJS, “(re)Forming Can tho’s as Found Canal-landscape”, conference paper, As Found conference Copenhagen, 17-18 June 2010.
  4. Kelly SHANNON, Bruno DE MEULDER, Annelies DE NIJS “From Above/From Below – The Case of Cantho, Vietnam” in E.H. JAZAIRY (ed.) New Geographies 4 (Cambridge: Harvard University Press, 2010) (forthcoming).
  5. Maspero, G. (1929). Un empire colonial Francais, l’Indochine. Van Oest, Paris-Bruxelles, France.
  6. Biggs, D. (2004). Between the rivers and tides: a hydraulic history of the Mekong Delta, 1820-1975. University of Washington, Seattle, Washington, U.S.
  7. Nguyen, Q. V. (1996). Urbanization in the Mekong Delta. Vietnam’s SocioEconomic Development 5, 44,55.
  8. Liao, K. H., T. A. Le and K. Van Nguyen (2016). “Urban design principles for flood resilience: Learning from the ecological wisdom of living with floods in the Vietnamese Mekong Delta.” Landscape and Urban Planning 155: 69-78.
  9. Shannon, K. (2004): Rhetorics & Realities. Addressing Landscape Urbanism. Three Cities in Vietnam. (unpublished doctoral dissertation, KU Leuven).

Tham khảo thêm: 

  • Kiến trúc & Không gian Công cộng vùng ĐBSCL
  • ĐBSCL: Biến đổi & thích nghi với chuyển đổi khí hậu

Thêm nhiều thông tin hấp dẫn với BdsNhaDat.com.vn



T.H

Tham gia thảo luận

So Sánh BĐS

So sánh