Chưa khi nào các vấn đề quy hoạch và quản lý đô thị ở Việt Nam lại “nóng” với rất nhiều bất cập cần được coi và giải quyết tựa như những năm quay lại đây. Câu truyện thời sự về những mâu thuẫn giữa quần chúng và chính quyền vòng quanh việc lấy đất cho những dự án, hay việc “giành lại vỉa hè” vừa rồi là những giả dụ điển hình để rộng mở cái nhìn về vấn đề quy hoạch và quản lý đô thị. Nó cho thấy, để quy hoạch và quản lý đô thị tốt, ngay từ đầu cần phải có sự tham dự của không ít bên: chính quyền, hệ thống chuyên gia, các nhà đầu tư, các đơn vị tư vấn và cộng đồng cư dân.
Cách tiếp xúc tham gia
Bình thường, rất khó để cân đối ích lợi của những bên khi họ có những mối quan tâm và ích lợi riêng rất không giống nhau, đôi lúc trái ngược, và ngay trong nội bộ mỗi bên cũng đã gồm nhiều thành phần. Giữa vô vàn khác lạ đó, chính quyền có vai trò quan trọng và thích hợp nhất để mời các bên nói trên cùng nhau thảo luận, tham vấn, lập các kiến nghị, đưa ra quyết định và cam đoan cùng thực thi quy hoạch (riêng khâu đưa ra quyết định thì vai trò của chính quyền là lớn nhất).
Tuy vậy, nhiều đất nước trong đó có Việt Nam vẫn chưa có cơ chế, chính sách và luật lệ để khuyến nghị hoặc luật hóa cách tiếp xúc kiểu “tham gia” (participatory) này. Ở Singapore, chính quyền cũng nhận biết được cách tiếp xúc này là khẩn cấp, mặc dù thế việc ứng dụng còn chưa sâu, chủ yếu ngừng lại ở khâu điều tra thăm dò khảo sát cư dân nên mức độ và phạm vi tham dự của cư dân vào quy hoạch vẫn rất hạn chế. Ở ta còn hạn chế không chỉ có vậy, nhiều dự án quy hoạch không có điều tra thăm dò khảo sát sâu rộng. Sau thời điểm đề ra các phương án quy hoạch thì có trưng cầu ý dân nhưng mang tính cách thức, thiếu minh bạch. Nhiều cư dân nhiệt tình góp ý, hồi đáp nhưng đơn vị chủ quản thường không phân loại, thống kê, công khai và để tâm đến tới những quan điểm đó.
Lời nói của những chuyên gia cũng thường bị “lờ đi” hoặc “nghe lấy lệ”. Họ góp phần nhiều ý tưởng hoặc phản biện ở các hội thảo chuyên môn cũng như trên các kênh truyền thông media đại chúng nhưng không đủ sức ảnh hưởng vào quá trình lập và thực thi các quy hoạch. Đại đa số người quyết định quy hoạch không có chuyên môn quy hoạch, còn người có chuyên môn lại không có quyền quyết định, dù chỉ ở mức góp phần một lá phiếu.
Ngay cả trong những dự án quy hoạch đô thị có tư duy kha khá cấp tiến – tạo điều kiện cho nhiều thành phần không giống nhau cất lời nói – thì sau cuối những quan điểm đó cũng lại “rớt rụng” dần, và rốt cuộc chưa đến một đội nhóm nhỏ chính trị gia quyết định. Và trên thực tiễn, người đưa ra quyết định chịu nhiều “ảnh hưởng”, một vài trong đó có sự gắn kết ngầm với nhóm các nhà đầu tư hoặc tư vấn để thụ hưởng. Thực tiễn này xảy ra ở nhiều nước trên thế giới.
Hậu quả của sự thiếu tham dự và đồng thuận đa bên cũng như việc thâu tóm của những nhóm ích lợi là chúng ta không thể có quy hoạch tốt, hoặc có nhưng tiếp nối đều bị bóp méo. Chẳng hạn như khu Giảng Võ ở TP Hà Nội, cư dân rất trông đợi sẽ có rất nhiều không gian mở và xanh sau thời điểm giải tỏa đất. Nhưng kiến nghị được đưa ra lại là những khối chung cư cao 50 tầng tỷ lệ cao, gây thêm áp lực cho hạ tầng vốn đã quá tải. Hay khu Linh Đàm vốn được quy hoạch bài bản và kha khá hoàn chỉnh với các khu nhà ở, hạ tầng xã hội, không gian xanh, vv…nhưng hiện nay đã “bị” biến đổi công năng và “biến dạng”, với tỷ lệ xây dựng cao tới mức các khối nhà nhiều tầng chen chúc san sát nhau, quây lại thành một chiếc giếng rộng lớn, không bảo đảm chiếu sáng, thông gió và những điều kiện sống khác. Xây đắp càng nhiều với tỷ lệ càng cao thì càng làm cơ sở hạ tầng quá tải và gây ra nhiều hệ lụy về giao thông, khí thải, rác thải, năng lượng, cũng giống như các vấn đề xã hội khác.
Phần cứng, phần mềm và phần “tâm”
Chúng ta đang tái cấu trúc lại nhiều thành phố trong cả đất nước, liên tiếp upgrade nâng cấp cơ sở hạ tầng, cải tạo các khu cũ và đô thị hóa các khu vực ven đô. Đây đều là những nhân tố thuộc sở hữu “phần cứng” (hardware). Tuy vậy, đô thị còn có “phần mềm” (software) song hành và tương tác với phần cứng, đấy là nhiều nhóm xã hội với đặc thù sinh kế, địa vị xã hội, văn hóa và lối sống không giống nhau.
Bình thường khi làm quy hoạch, phần mềm thường rắc rối phức tạp, sắc sảo, nhạy cảm, khó thăm dò khảo sát nhận định hơn và do đó cũng ít được quan tâm hơn phần cứng “vô hồn” và dễ đong đếm. Nếu như không quy hoạch hợp lí thì phần mềm và phần cứng sẽ “cọc cạch”, không “tương sinh” mà “tương khắc” với nhau. Giả dụ khi chúng ta di dời cư dân trong phố cổ TP Hà Nội ra các khu tái định cư ở ngoại vi, thoạt nhìn dưới khía cạnh “phần cứng” thì chúng ta sẽ tưởng cư dân mừng vui vì được “đổi đời” với không gian sinh sống thông thoáng, tiện nghi và “văn minh” hơn. Nhưng trên thực tiễn, nhiều người không muốn di dời vì khó thích nghi với hệ sinh thái sống mới. Họ đã quá quen bám đường, bám chợ với không gian văn hóa-xã hội cổ truyền, đi là mất xóm giềng bằng hữu, mất chợ mất chùa, và hiểm nguy đặc biệt là…mất kế sinh nhai. Vì vậy mới có cảnh, các khu tái định cư ven đô nhanh gọn biến đổi thành một kiểu “làng phố theo chiều đứng”, với cô bán phở tầng 7, bác cắt tóc tầng 3… Nói theo một cách khác, phần cứng mới không thích hợp và không đủ lôi cuốn để đánh đổi lấy phần mềm cũ.
Tương đương, trong quản lý đô thị, không thể chỉ dùng tư duy máy móc, duy ý chí và không xét tới phần mềm để lập sách và hành xử. Câu truyện “giành lại vỉa hè” hiện tại là 1 thí dụ. Vỉa hè có công năng chính là không gian giao thông cho những người đi dạo (phần cứng) nên thực sự là cần thoáng đãng. Tuy vậy ở Việt Nam và nhiều nước khác, vỉa hè còn mang công năng phụ không nhỏ thuộc sở hữu phần mềm: các công năng kinh tế (phi chính thức của tiểu thương, hàng rong), văn hóa (như café vỉa hè) và xã hội (nơi giao lưu chòm xóm, bằng hữu). Vỉa hè tuy là 1 không gian hẹp nhưng chứa đựng biết bao thân phận con người. Dẹp phần xâm chiếm của hotel, shop mặt trước có lẽ chỉ làm họ bớt giàu sang. Nhưng dẹp bỏ những người sống bám vỉa hè có thể làm nhiều gia cảnh thêm khốn khó và nhiều đứa trẻ mất thời cơ đến trường hay thêm manh áo mới. Kế nữa, dưới khía cạnh văn hóa, vỉa hè lộn xộn với ngập tràn các hoạt động sống sẽ lôi cuốn du khách hay tạo nhiều cảm hứng cho những nghệ sĩ hơn nhiều so với 1 con phố mà vỉa hè trống trơn và sạch tinh không một cọng rác (như trường hợp so sánh vỉa hè Paris hay Rome với Singapore). Bởi vậy, quản lý đô thị buộc phải hoạt bát, tính toán và cân đối nhiều góc độ của cuộc sống.
Phần sau cuối và ít được nhắc tới là phần “tâm” (heartware) – lương tâm, chữ “nhân”, sự thấu cảm (empathy) và vị tha – trong quy hoạch và quản lý đô thị. Ai không khỏi xót xa khi thấy cảnh lực lượng công năng đi dẹp hàng rong vỉa hè, bám đuổi và thu hồi phương tiện sinh kế? Ai không đau đáu với các vấn đề người vô gia cư, nhà ổ chuột, chợ người lao động vv…nội đô? Nhìn toàn diện, quy hoạch và quản lý đô thị ở ta yếu cả về “tâm” (chính là heartware) lẫn về “tầm” (tầm nhìn, tư duy, kiến thức chuyên môn, kinh nghiệm…). Nhưng nếu cầu thị và lắng nghe lời nói của những chuyên gia và cư dân thì những nhà quản lý sẽ nâng cao quý “tầm” trong chuyên môn lẫn “tâm” trong nhìn nhận các vấn đề xã hội, từ đấy hiểu sâu hơn nhu cầu, tâm tư và ước vọng của cư dân để từ đấy có phương pháp thích hợp và nhân văn hơn.
Xin đơn cử một thí dụ về ứng xử của chính quyền ở một thành phố ở Mỹ. Tại đây có hiện tượng các bức tường trên phố bị vẽ graffiti bậy. Trước tình huống đó, lúc ban đầu chính quyền lựa chọn cách cấm, siết chặt kiểm soát và phạt nặng, nhưng không hiệu quả, vì cứ sơn lại thì đêm nào đấy lại có kẻ vẽ trộm tiếp. Tiếp nối thành phố đã để tâm đến và lựa chọn cách ứng xử khác hoàn toàn. Họ tìm gặp được thủ lĩnh nhóm, tìm hiểu tâm tư và nguyên nhân, và phát hiện thấy đây là một đội nhóm thanh thiếu niên rất tài giỏi mỹ thuật và khát khao thể hiện bản thân (self-expression), bản tính của tuổi trẻ. Sau cùng chính quyền đã cầu thị, mời họ khởi xướng và tham dự vào một số dự án nghệ thuật cộng đồng, chỉnh trang đô thị và họ tươi vui nhận lời với thái độ tự hào. Đấy là 1 cách ứng xử trong quản lý đô thị rất thông minh, hoạt bát, đáng để học tập. Câu truyện này gây liên tưởng tới cách chúng ta ứng xử chống đua xe máy lâu nay. Thay cho truy bắt, giăng bẫy gây tai nạn khiến họ sợ hãi nhưng cũng thử thách “máu anh hùng”, ta nên xây trường đua để các năng khiếu điều khiển xe trẻ phát triển như ở nhiều nước đã làm.
Để tận dụng tối đa nguồn lực và “tai mắt” từ cư dân, nhiều thành phố tiên tiến trên thế giới đang ứng dụng cơ chế phát huy nguồn lực cộng đồng (crowd sourcing), có nghĩa là xây dựng một nền tảng (platform) công nghệ để tích lũy thông tin phản ánh từ cư dân về thực trạng đô thị ở nơi họ sinh sống hoặc xuyên qua. Tiếp nối họ làm các chiến dịch quảng cáo, khuyến nghị cư dân tải một vận dụng chuyên được sử dụng (free) về điện thoại hoặc máy tính của mình. Khi thấy bất cứ vấn đề gì (hạ tầng hỏng hóc, không gian công cộng bị chiếm hữu, có cãi vã ẩu đả…) thì người dùng có thể quay clip, chụp ảnh, viết phản ánh và gửi về ngay theo các kênh đã được phân loại sẵn trong app. Chính quyền thành phố có bộ phận chuyên trách xử lý thông tin ngay lập tức theo thời gian thực (real-time), rồi chuyển về các phòng công năng để có giải pháp khắc phục xử lý. Hiện tại ở Việt nam, chúng ta đang rất cố gắng để bắt kịp các xu thế mới về vận dụng công nghệ thông tin trong quy hoạch và quản lý đô thị, điển hình như Thành Phố Hồ Chí Minh với tầm nhìn nhắm tới “đô thị thông minh” (smart city). Tuy vậy hiện tại chúng ta chủ yếu chỉ dừng ở việc xây dựng đường dây nóng, cách thức sơ khai và hạn chế nhất của crowd sourcing để tích lũy phản ánh và góp ý của cư dân.
Kinh nghiệm quốc tế
Chúng ta nên xem thêm cách làm quy hoạch và quản lý đô thị của một vài thành phố đã được trao Phần thưởng Đô thị Thế giới Lý Quang Diệu (Lee Kuan Yew World City Prize), phần thưởng về đô thị sự uy tín nhất của Singapore được trao 2 năm một lần cho 1 đô thị trên thế giới có thành tích cách tân vượt trội.
Thí dụ, năm 2014, giải được trao cho Tô Châu, một thành phố kha khá giống với Việt Nam về văn hóa-xã hội. Tô Châu đã rất thành công trong việc bảo đảm cân bằng bất đồng giữa tăng trưởng kinh tế nhanh gọn với nhu cầu bảo vệ di tích, giữa đối phó với 1 lượng lớn lao động nhập cư với duy trì ổn định xã hội. Bí kíp của Tô Châu là đã học tập kinh nghiệm và nhận trợ giúp từ Singapore trong các năm 1990 ngay từ khi lập tổng quy hoạch khu công nghiệp trước tiên và trung tâm thành phố.
Đầu tiên, Tô Châu chuyển dịch kinh tế thành công từ nông nghiệp và sản xuất công nghiệp giá trị thấp sang kinh tế tựa vào dịch vụ và sáng tạo giá trị cao. Thành phố upgrade nâng cấp cơ sở hạ tầng, tạo cơ chế đầu tư lôi cuốn, quảng cáo quốc tế để hấp dẫn doanh nghiệp toàn thế giới tới, lập ra Khu Công Nghiệp Tô Châu và Khu Thương Mại Trung Tâm Kim Kê Hồ (Jinji Lake). Khi thành phố phát triển lên, họ tiếp tục đầu tư vào cơ sở hạ tầng như xây dựng hệ thống xe điện ngầm mới cho thành phố cũng như kết nối khu công nghiệp với trung tâm thành phố và các khu vực phát triển khác.
Thứ 2, Tô Châu nhận biết được tầm quan trọng của việc bảo tồn văn hóa nên một mặt, thành phố chuyển áp lực phát triển vào khu trung tâm thương mại hỗn hợp trung tâm, một mặt tiếp tục đầu tư gìn giữ các di tích văn hóa lịch sử. Những khu vực di sản được UNESCO công nhận như khu lịch sử Bình Giang (Pingjiang) đã được bảo tồn các giá trị lịch sử song vẫn phát triển dưới dạng một khu người dân lôi cuốn cho những người dân sinh sống.
Trong thực thi quy hoạch và quản lý đô thị, Tô Châu được nhận xét cao trong việc cố gắng cản thiện hệ sinh thái sống có lồng ghép các chính sách xã hội tốt để bảo đảm quyền lợi của các cư dân bị di dời giải tỏa. Một thí dụ điển hình là khi xây dựng dự án Khu thắng cảnh Thạch Hồ, thành phố phải di dời những hộ nông dân chăn nuôi lợn ra khỏi khu vực hồ sinh thái vì hoạt động này gây ô nhiễm và độc hại hồ nghiêm trọng. Những người nông dân được di dời, tái định cư trong thời gian vỏn vẹn bốn tháng với chính sách lôi cuốn “đổi 1 lấy 3”, có nghĩa là mỗi nông hộ được cung ứng ba căn hộ ở khu tái định cư để đổi lấy một nông trại mà người ta đang sinh sống. Với 3 căn hộ mới này, cư dân có thể giữ 1 căn để ở, 1 căn khiến cho con cái và 1 căn làm tài sản cho thuê tạo sinh kế.
Một thành tựu vượt trội khác nữa của Tô Châu là tạo các chính sách an sinh xã hội rất tốt. Khi phải đối diện với lượng người nhập cư từ nông thôn đổ xô vào thành phố 1 cách chóng mặt, Tô Châu đã có những chính sách xã hội rất sáng tạo để thúc đẩy hội nhập cộng đồng. Tất cả các người lao động nhập cư đều được tạo thời cơ tiếp xúc với các dịch vụ công như y tế, giáo dục 1 cách bình đẳng với tựa như những thị dân lâu đời khác, từ đấy tạo thành ổn định xã hội dài lâu.
Sau cùng, Tô Châu đã làm rất tốt trong việc duy trì bản sắc văn hóa địa phương, mang lại chất lượng cuộc sống cao cho những người dân cũng như hấp dẫn khách du lịch bằng cả giá trị của quá khứ và tương lai. Lãnh đạo thành phố đã cho thấy khả năng cả về “tâm” lẫn “tầm” cũng như quyết tâm chính trị rất cao trong việc phát triển Tô Châu thành một đô thị kiểu mẫu, tạo thành nhiều bài học giá trị cho những khu vực đô thị phát triển nóng ở Trung Quốc cũng như trên trường quốc tế.
Theo Tô Kiên/Tia sáng
Thêm nhiều thông tin hấp dẫn với BdsNhaDat.com.vn ✅
T.H