Trong lúc Singapore phải lấn biển hàng chục năm để có thêm đất, Sài Gòn lại có sẵn ngay bán đảo Thủ Thiêm, đất dự phòng phát triển với ba mặt nhìn ra thành phố cũ, chỉ cách trung tâm hiện hữu một dòng sông rộng chưa tới 300m. Nhưng suốt 50 năm qua, sau ba đồ án quy hoạch đầy tham vọng trong lịch sử: 1965, 1972 và gần đặc biệt là 2012, Thủ Thiêm vẫn chính là vùng đất nằm chờ thời cơ.
Ðồ án 1965: Xây dựng một mô hình đô thị bản địa
Năm 1965, Công ty tư vấn Doxiadis Associates (DA) của KTS thiết kế Hy Lạp Constantinos Apostolou Doxiadis được Nha Kiến tạo (Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa) giao hai trọng trách: kiến nghị một kế hoạch phát triển cho vùng đô thị Sài Gòn – Chợ Lớn trong tầm 20 – 30 năm; và nghiên cứu mô hình nhà ở thích hợp với điều kiện của miền Nam Việt Nam để thực hiện một dự án thử nghiệm xây dựng 1.000 ngôi nhà. Nhóm tư vấn đã chọn lựa bán đảo Thủ Thiêm là dự án tiên phong để phát triển nhà ở trong thành phố.
Tại khi đó, nhu cầu rộng mở khu trung tâm Sài Gòn chưa xuất hiện. Trái lại, cung ứng nhà ở cho 1 lượng di dân to lớn từ các vùng quê đang có chiến tranh là mục đích hàng đầu. Dân số Sài Gòn tăng mười lần trong tầm 25 năm, từ 24 vạn lên đến 2,4 triệu con người, trong một thành phố vốn chỉ được người Pháp thiết kế cho nửa triệu con người. Trong hoàn cảnh đó, vùng đất trống bên kia bờ sông Sài Gòn là vị trí lý tưởng để xây dựng nhà ở phục vụ nhu cầu khẩn cấp của di dân.
Công việc thiết kế một khu người dân mới được nhóm tư vấn Hy Lạp bắt đầu bằng một thăm dò ý kiến ba khu hiện hữu: khu người dân cũ, khu nghèo và khu có cả người giầu và người nghèo ở lẫn, để hiểu lối quần cư của người Việt, nhu cầu của những nhóm xã hội không giống nhau và kiếm tìm nguyên vật liệu và kỹ thuật xây dựng tại địa phương mà đã được bằng chứng qua thời gian. Thêm nữa, các tác giả còn làm một thăm dò ý kiến tới 117 hộ gia đình (738 người dân) để hiểu điều kiện, nhu cầu và ước mong của họ.
Ý tưởng chủ đạo của phương án quy hoạch là việc nối dài đường lớn Hàm Nghi qua bờ bên kia sông Sài Gòn rồi hướng thẳng về phía Biên Hòa – hướng phát triển chủ đạo của thành phố, tạo ra trục chính Ðông – Tây của KĐT mới. Xuôi theo trục xương sống này là 1 dải đất hành chánh và thương mại. Nhóm tư vấn áp dụng mô hình “ô phố cực đại” (mega block) để tách rời giao thông cơ giới và đường đi dạo. Mỗi ô phố là 1 khu người dân hình chữ nhật có thiết kế mô phỏng các cụm người dân vùng sông nước Nam bộ với hệ thống kênh rạch, thay cho những tuyến đường, tạo thành trục công cộng chính. Những con kênh này, nằm theo hướng dòng chảy của sông Sài Gòn, sẽ được dùng vào cả mục tiêu giao thông và thoát nước. Không có đường xe cơ giới nào chạy xuyên thẳng qua khu người dân mà chỉ với những con đường đi dạo nhỏ len lỏi vào từng khu nhà ở thấp tầng (thăm dò ý kiến của group tư vấn tại Sài Gòn cho thấy 55% số người được đặt những câu hỏi nói rằng đi dạo là phương tiện chính của họ). Những mẫu nhà ở đậm chất địa phương: sử dụng nguyên vật liệu tự nhiên và được sắp xếp trồi ra, thụt vào xuôi theo tuyến phố đi dạo như trong các làng xóm cổ truyền.
Vì nhu cầu nhà ở đang khẩn cấp, các nhà quy hoạch của Công ty DA dồn hết tâm huyết vào khu người dân. Các sử dụng đất khác chỉ được gọi là thứ yếu và tưởng như chỉ được nhận phần đất thừa sau thời điểm khu người dân đã được sắp xếp ổn thỏa. Trong hoàn cảnh mặt nước sông Sài Gòn đã sôi động thuyền buôn và tàu chiến qua lại, đồ án lại để ngỏ 1 trong những câu hỏi khó nhất của việc phát triển Thủ Thiêm: vượt sông Sài Gòn ra làm sao: bằng cầu hay hầm?
Ðồ án của DA được phê duyệt năm 1968 và thậm chí đã được in lên một vài map bản đồ Sài Gòn đầu thập niên 1970 nhưng không lúc nào trở thành hiện thực. Việc quy hoạch Thủ Thiêm như là những khu người dân ngoại ô khép kín thay cho một KĐT trung tâm có mạng đường ô bàn cờ đã để cho việc phân nhỏ dự án và phân kỳ đầu tư gặp trở ngại. Thêm nữa, các nhà quy hoạch Hy Lạp dường như không tôn trọng thực trạng tự nhiên của vùng đất mà kiến nghị lấp tất cả rạch tự nhiên và đào một hệ thống rạch hoàn toàn mới, dẫn đến phí tổn quá lớn trong lúc ngân sách miền Nam đang phải gánh cuộc chiến đã tới kỳ tàn khốc.
Sau cùng đồ án của DA vẫn chỉ đơn giản là một niềm mơ ước dang dở. Không có dự báo nhu cầu sử dụng đất, không có nhận định ảnh hưởng giao thông và quan trọng nhất, không lên kế hoạch và nhận định về tài chính cho dự án – những thiếu sót căn bản trong quy hoạch đô thị mà nền quy hoạch Việt Nam đương đại cũng vẫn chưa thoát khỏi – dự án ngừng lại ở những bản vẽ.
Ðồ án 1972: Một đô thị “tự túc dồi dào”
Ba năm sau thời điểm đồ án của Doxiadis được phê duyệt, một nghiên cứu khác được bắt đầu, thực tiễn hơn và với 1 tầm nhìn khác cho Thủ Thiêm.
Quy hoạch phát triển Thủ Thiêm lần hai, hoàn tất năm 1972, do một tổ nhóm công ty tư vấn dẫn đầu bởi Wurster, Bernadi and Emmons Architects and Planners (WBE) đóng tại San Francisco (Mỹ) triển khai. Các member thành viên khác của group bao gồm một công ty tư vấn tài chính – kinh tế, một công ty về giao thông và một về kỹ thuật hạ tầng. Một đội ngũ đa ngành và có tầm nhìn sách lược đã giúp đồ án Thủ Thiêm năm 1972 có những Màu sắc mới. Tại thời điểm bây giờ, Thủ Thiêm đã được coi như là sự rộng mở của khu trung tâm hiện hữu. Ðồng thời, tiếp theo đồ án DA, quy hoạch Thủ Thiêm năm 1972 vẫn khuyến nghị mô hình đô thị nhiều chức năng vốn dĩ là đặc tính của đô thị Việt Nam.
Tránh sai trái của đồ án do DA triển khai, đồ án Thủ Thiêm năm 1972 có 1 phần sưu khảo công phu tập trung năm nhóm vấn đề chính: xu thế phát triển của vùng Sài Gòn; địa chất và địa dạng; nhận định lưu lượng giao thông cho những tuyến phố nội bộ và các phương án cùng kinh phí vượt sông Sài Gòn; dự báo 30 năm về giá trị đất đai, nhu cầu sử dụng đất, phân tích phí tổn-lợi cho mỗi phương án và dòng tiền đầu tư công; nhận định chính sách, quy định của chính quyền về phát triển đô thị. Có lẽ không nhiều, nếu như không phải là không có đồ án quy hoạch nào cho tới tận ngày hôm nay nhận được tính tổng hợp và đa ngành thật sự như quy hoạch Thủ Thiêm năm 1972.
Về mặt cấu trúc, đồ án 1972 phát triển chung quanh một hệ thống đường mạch máu ba lớp song song hình vòng cung uốn theo như hình hài của bán đảo. Cấu trúc này được phát triển dựa trên nhận biết rằng mô hình một trục Ðông – Tây như trong đồ án 1965 dồn hết lượng giao thông vào 1 tuyến mạch máu đặc biệt nhất và không khuyến nghị phát triển ven sông Sài Gòn. Ðể giảm kinh phí đầu tư hạ tầng, những tuyến phố trục chính là sự rộng mở và nối dài của hai con đường cũ trên bán đảo, đồng thời tất cả những con rạch được không thay đổi và kết nối với nhau để tăng lên khả năng thoát nước và phục vụ giao thông thủy. Các ô phố cực đại trong đồ án 1965 cũng được thay thế bằng những ô phố nhỏ nhiều hơn, không quá khác lạ về size kích cỡ so với trung tâm Sài Gòn hiện hữu, để dễ dàng phân kỳ và chia nhỏ quy mô đầu tư.
Thủ Thiêm được nối với quận Nhất kinh qua việc nối dài đường lớn Hàm Nghi và đường Nguyễn Bỉnh Khiêm – hai trục lộ cùng với bờ Ðông của sông Sài Gòn tạo ra một tam giác phát triển để xây dựng một trung tâm mới cho đô thành Sài Gòn. Trong đồ án này, nhóm tư vấn kiến nghị một quảng trường dài từ bờ sông Sài Gòn, đối mặt công trường Mê Linh, tới khu hành chánh tọa lạc ở lõi trung tâm – một ý tưởng tiếp tục được khai thác trong những quy hoạch về sau.
Ba phần thú vị nhất của đồ án là những bàn bạc về sự việc kết nối hai bờ sông Sài Gòn, phần về tài chính và phần kiến nghị chính sách. Dựa trên những nghiên cứu về giao thông và giá trị đất đai, đồ án yêu cầu thành phố sớm hoàn tất tuyến phố vành đai về phía Nam (đường Nguyễn Văn Linh hiện tại) để giảm lưu lượng giao thông xuyên thẳng qua trung tâm thành phố và kết nối với cảng hàng không tương lai (cảng hàng không Long Thành), di dời Tân Cảng và xưởng đóng tàu Hải quân (Ba Son) để xây cầu thấp kết nối quận Nhất với Thủ Thiêm. Tất cả các kiến nghị này đều phải chờ tới 30 năm sau mới được coi xét triển khai bởi chính quyền mới.
Hạn chế lớn nhất của đồ án Thủ Thiêm năm 1972 có lẽ chính là tuyến phố mạch máu vòng cung có thiết kế như 1 đường cao tốc thay cho một đường lớn nội đô. Về mặt kỹ thuật, các nhà quy hoạch Hoa Kỳ có thể đã có lý khi kiến nghị tuyến phố này để phân phối lưu lượng giao thông tốt hơn trên bán đảo. Mặc dù vậy, về mặt thiết kế đô thị, phương pháp này, cộng với việc tôn trọng hoàn toàn thực trạng kênh rạch, đã “băm” Thủ Thiêm thành từng “ốc đảo” đô thị nhỏ, kết nối kém nhưng lại có quy mô quá nhỏ để phát triển độc lập. Thiết kế Thủ Thiêm của WBE cũng thiếu hẳn những đường lớn duyên dáng và có tính biểu tượng cao như di tích đô thị mà người Pháp đã để lại bên kia sông Sài Gòn.
Tập trung vào sách lược phát triển, đồ án của WBE bởi vậy thiếu hụt những kiến nghị về kiến trúc công trình và không gian công cộng cũng như sự tương tác giữa hai thành phần này tựa như những gì mà đồ án năm 1965 của DA đã góp phần. Mặc dù vậy, kinh qua bản vẽ minh họa mặt bằng, có thể thấy rằng các nhà quy hoạch Hoa Kỳ vừa thực tiễn và cũng tương đối nhạy cảm với hoàn cảnh địa phương bằng sự việc tiếp tục tạo lên một thành phố của các công trình và không gian công cộng nhỏ, thân thiết với con người, phân tán khắp nơi và luôn có sự liên kết 1 cách tự nhiên, bất quy tắc với sông nước, tựa như những gì mà người ta quan sát được tại thành phố Sài Gòn và các đô thị miền Nam thời điểm đó.
Quy hoạch Thủ Thiêm năm 1972 và tiếp đến là Kế hoạch phát triển vùng Sài Gòn năm 1974 do Nha Kiến tạo thị thôn triển khai là những bước tiến dài về giải pháp quy hoạch trong lịch sử phát triển đô thị ở Việt Nam. Bước tiến này, tiếc thay, không được kế thừa sau năm1975.
Ðồ án (tùy chỉnh) 2012: Thiếu bản sắc, xa thực tiễn
Chiến tranh băng qua nhưng số phận của bán đảo Thủ Thiêm chưa hết long đong.
Chìa khóa cho việc phát triển Thủ Thiêm tọa lạc ở sự kết nối giữa hai bờ sông Sài Gòn. Vượt qua khoảng cách 300m giữa hai bờ một con sông hiền hòa tưởng chừng là 1 việc đơn giản nhưng lại trở ngại biết bao nhiêu bởi tư duy ấu trĩ của thời chiến. Từ thời điểm năm 1994, chuyện vượt sông Sài Gòn bắt đầu được hâm nóng lại với ý tưởng về một cây cầu. Thế nhưng Tân cảng và xưởng Ba Son, dưới sự quản lý của quân đội, dường như không chấp thuận di dời dù tọa lạc ở những địa điểm sâu trong trong nước, không thuận tiện để phát triển dài lâu. Ðến năm 1999, sau nhiều tranh luận, chính quyền thành phố quyết định xây hầm để nối Sài Gòn với Thủ Thiêm. Trớ trêu thay, không lâu sau ngày khởi công hầm Thủ Thiêm, cả Tân cảng và nhà máy Ba Son được quyết định di dời ra phía bên ngoài thành phố. Phương pháp hầm không những tốn kém hơn xây cầu gấp bốn đến tám lần mà nghiêm trọng hơn, còn làm cho bán đảo Thủ Thiêm rớt vào cảnh “gần nhà, xa ngõ” so với ba trục đường trung tâm thành phố: Ðồng Khởi, Lê Lợi và Nguyễn Huệ.
Nếu việc xây hầm đã “đẩy” Thủ Thiêm ra xa trung tâm Sài Gòn hơn, thì đồ án Thủ Thiêm thứ 3 lại thiếu tính thực tiễn khẩn cấp để “hàn gắn” mối liên hệ lỏng lẻo giữa hai trung tâm đô thị này.
Năm 2003, Sasaki Associates (Hoa Kỳ) thắng phần thưởng cuộc thi thiết kế Trung tâm đô thị mới Thủ Thiêm và tiếp đến tiếp tục tùy chỉnh đồ án quy hoạch cho đến năm 2012. Tầm nhìn cho bán đảo Thủ Thiêm khi này là 1 “trái tim mới” trong thế kỷ 21 cho Thành Phố Hồ Chí Minh với sự phối hợp hài hòa giữa hệ thống kênh rạch, công viên thiên nhiên, không gian công cộng, những thiết kế kiến trúc đương đại nhưng vẫn bảo tồn mật độ đô thị thân thiết với con người vốn dĩ là đặc thù của Sài Gòn.
Về mặt cấu trúc, có ba không gian mở chính trên bán đảo: dải công viên ven bờ sông Sài Gòn; dải công viên ven mặt nước tạo ra một hành lang xanh trong lòng bán đảo; và vùng châu thổ thấp phía Nam Thủ Thiêm được bảo tồn để dành thêm không gian cho nước và thiên nhiên giữa lòng đô thị Sài Gòn. Kết nối giữa ba không gian xanh này là những dòng kênh, những đường lớn và quảng trường mở tầm nhìn từ lõi Thủ Thiêm ra tới sông Sài Gòn và thành phố cũ phía bên kia dòng nước. Thế nhưng đồ án Thủ Thiêm năm 2012 với sự độc đáo về phong cảnh ấy lại có 1 tương lai không rõ nét bởi thiếu đi sự nhạy cảm với thị trường BDS và lô gich về hệ thống giao thông để cuốn hút đầu tư.
Trước tiên, sai trái lớn nhất của đồ án 2012 là cách phân bổ tỷ lệ xây dựng công trình. Những ô phố chung quanh cửa hầm Thủ Thiêm phía bên bán đảo lại chỉ được sắp xếp tầng cao nhất 30 tầng trong lúc đây là địa điểm thuận tiện nhất để phát triển bởi có kết nối giao thông cực tốt và đối mặt với trục Nguyễn Huệ và Hàm Nghi. Việc một nhà đầu tư đã ảnh hưởng để thay đổi sử dụng đất của lô phố ngay cửa ngõ đường dẫn xuống hầm Thủ Thiêm từ 1 tháp quan sát (công trình thuần tuý có tính biểu tượng) qua một tòa cao ốc 86 tầng phản ánh tính nhanh nhạy của những nhà đầu tư khi nhìn ra tính sách lược của địa đặc điểm này cũng như sự non nớt về thị trường của đồ án lúc đầu. Cùng khi đó, đồ án lại kiến nghị sắp xếp những công trình nhiều tầng nhất xuôi theo hai bên đường lớn hình cung – 1 trong hai tuyến mạch máu của Thủ Thiêm – vốn không thể kết nối trực tiếp với đường lớn Ðông Tây và bởi vậy có kết nối kém hơn với trung tâm hiện hữu cũng như tất cả vùng.
Thêm nữa, việc sắp xếp tàu điện ngầm băng qua những khu vực có tỷ lệ thấp nhất tại Thủ Thiêm, xuôi theo đường lớn Ðông – Tây, và dùng xe buýt để phục vụ dải đô thị tỷ lệ cao ven sông Sài Gòn là 1 giả dụ nữa về tính không hợp lý của đồ án.
Việc tạo dựng một quảng trường lớn hướng về phía công trường Mê Linh, vốn không phải là 1 không gian công cộng quan trọng của thành phố, trong lúc không đả động gì tới địa điểm đối mặt đường lớn Nguyễn Huệ và Hàm Nghi, phản ánh sự gượng gạo và xa rời thực tiễn của đồ án.
Sau cùng, đồ án SA thiếu hẳn những quan sát thâm thúy về đô thị Sài Gòn nói riêng và đô thị Việt Nam nói chung và bởi vậy thiếu đi sự độc đáo về văn hóa và tính bản địa trong thiết kế như hai đồ án trước 1975. Quy hoạch Thủ Thiêm, nếu như không biết đến tên thường gọi, có thể đã được triển khai cho bất cứ thành phố nào trên khắp thế giới.
50 năm, giấc mộng Thủ Thiêm vẫn chưa thành.
Theo dothivietnam
Thêm nhiều thông tin hấp dẫn với BdsNhaDat.com.vn ✅
T.H