Vấn đề quy hoạch đô thị và nhà cao tầng ven biển, bài học từ các đô thị ven biển của Bra-xin ❗


Tổng quát

Dự trù vừa mới đây cho thấy 1,2 tỷ người sống trong phạm vi 100 kilomet bãi biển ở độ cao dưới 100 m, trong đó tỷ lệ dân số to hơn khoảng 3 lần so với mức trung bình toàn thế giới (Nicholls và Small, 2002). Ở Bra-xin, đường bãi biển nối dài tới 8500 kilomet gồm có 300 đô thị sát biển. Bốn trong những số mười (40%) khu vực đô thị lớn nhất của Bra-xin tọa lạc ở sát biển. 1/2 dân số (hơn 90 triệu con người) sống cách biển chỉ còn 200 kilomet. Tăng thêm dân số nhanh gọn được theo sau bởi quá trình đô thị hóa vô tổ chức của những khu vực sát biển.

Tỷ lệ dân số cao ở các khu vực sát biển làm giảm khả năng hồi phục hệ sinh thái của bờ biển, nhất là ở các khu vực đô thị. Ở nhiều KĐT sát biển du lịch đã đóng góp thêm phần chủ yếu vào sự chiếm hữu bãi biển, dẫn đến giảm chất lượng hệ sinh thái tại các bờ biển giải trí. Các nhà xã hội học cho rằng ở các nước tiên tiến, các bờ biển thường được coi là không gian giải trí và giải trí của xã hội modern hiện đại. Trong khi ấy ở các nước đang phát triển, các bờ biển hay sử dụng để trao đổi hàng hóa dịch vụ. Bởi thế, các bờ biển thay mặt đại diện cho hai hệ thống tương tác con: 1 là hệ thống tự nhiên và và còn lại là kinh tế xã hội.

Sự tiến lên sát biển, cùng với ảnh hưởng của những hoạt động của con người ở lưu vực sông, thường dẫn đến việc giảm mạnh nguồn cung trầm tích đến bãi biển, dẫn đến sự rút lui của môi trường ven bờ và xói mòn bãi biển. Điều đó có thể dẫn đến sự tàn phá các khu vực đô thị sát mép nước (trường hợp cửa Đại, Hội An). Các bờ biển Đà Nẵng, Nha Trang, Hội An… đang càng ngày càng bị kẹp giữa những khu vực đô thị đang phát triển ở phía châu lục và ảnh hưởng của sóng và thủy triều ở phía đại dương. Trong điều kiện như thế, các bờ biển mất khả năng hồi phục tự nhiên, thay đổi nhanh gọn về ngoại hình và rộng mở bằng phương pháp nhân tạo (bờ kè, kè chắn sóng, mỏ hàn…) để chống chọi với các event sự kiện thiên tai. Những thay đổi do con người gây ra, như đô thị hóa các khu vực quá gần bờ, không những làm thay đổi thâm thúy môi trường thiên nhiên, mà sớm muộn cũng bị đe dọa bởi các ảnh hưởng động lực học ven bãi biển. Điều đó đặc biệt xảy ra trong những event sự kiện thiên tai, thường thúc đẩy việc xây dựng các công trình kỹ thuật sát biển cứng. Những lý do này làm thay đổi đặc thù và động lực sát biển, làm giảm khả năng thích ứng với các event sự kiện tự nhiên của bờ biển và can thiệp trực tiếp vào cân bằng trầm tích của chúng.

Sự tiến lên đô thị mạnh mẽ đã diễn ra ở Đà Nẵng vào những năm 2000, thời kỳ mà ích lợi kinh tế của Đà Nẵng chuyển từ vùng trong nước và bắt đầu tập trung hầu như hoàn toàn vào bãi biển. Bởi thế, Đà Nẵng không còn là 1 thành phố cảng thuần túy và trở thành 1 trong những điểm du lịch được kiếm tìm nhiều nhất ở Việt Nam và Châu Á. Sự biến đổi này được chi phối bởi quá trình đô thị hóa mạnh mẽ khu vực sát biển bắt đầu từ cuối những 2000 và đạt đỉnh điểm vào những năm 2010.

Đô thị sát biển Bra-xin qua trường hợp đô thị Fortaleza

Thành phố Fortaleza, thủ phủ của bang Ceará, Đông Bắc Bra-xin, quay ra Đại Tây Dương vùng xích đạo với 34 kilomet bờ biển đầy cát và có độ cao trung bình 21 m so với mực nước biển. Như nhau tình huống của Đà Nẵng, Fortaleza có hơn 30 kilomet đường bãi biển, được giới hạn bởi các dòng sông Pacoti (phía đông) và Ceará (phía tây). Ở Fortaleza, từ những năm 1960 đến 2011, dân số đã tăng hơn 250%. Trong 10 năm trước tiên của thế kỷ 21, dân số của Fortaleza đã tăng hơn mức trung bình đất nước. Fortaleza là đô thị đông dân thứ năm (2.447.409 người) ở Bra-xin. Sự tăng trưởng này đạt được nhờ đầu tư mạnh mẽ vào đô thị và cơ sở hạ tầng du lịch (hotel, khu resort, nhà hàng và CLB đêm).

Dòng vốn và con người mãnh liệt, và những hạn chế của không gian địa lý dẫn đến việc xây dựng nhà nhiều tầng. Ở Bra-xin, việc xây dựng nhà nhiều tầng tại các khu vực sát biển bắt đầu vào năm 1920 tại các thành phố São Paulo (Bờ biển Santos) và Rio de Janeiro (Bờ biển Copacabana). Tại các thành phố Đông Bắc Bra-xin, các công trình xây dựng phía trên mặt biển bắt đầu từ những năm 1950 của thập niên 1960 (chẳng hạn: Fortaleza, Recife và Salvador).

Ở nhiều thành phố của Bra-xin, giới hạn chiều cao nhất đối với các tòa nhà ở mặt biển được xác lập vào những năm 1990. Luật Đất đai (thập niên 1960) luật lệ rằng ở hầu như tất cả các thành phố sát biển, gồm có cả Fortaleza, tất cả những khu người dân tọa lạc ở mặt biển và cạnh sông phải có chiều cao xây dựng tối đa từ ba (3) đến bốn (4) tầng. Hiện tại, đối với hầu như tất cả các thành phố sát biển của Bra-xin giới hạn cho phép đối với các tòa nhà ở mặt biển thay đổi từ 60 m (20 tầng) đến 75 m (25 tầng). Trong trường hợp của Fortaleza, giới hạn này là 72 m (24 tầng). Ở Việt Nam, con số này rất cần một luận chứng khoa học cụ thể cho những thành phố biển và các khu vực ven sông.

Ở sát biển Fortaleza, các tòa nhà cao trung bình 14,5 tầng. Khu vực Mucuripe (B17 – hình 1) là nơi có các tòa nhà cao tối đa trong hầu hết (26 tầng) (Hình 1). Khu vực này cũng có sáu tòa nhà vượt quá giới hạn chiều cao cho phép đối với các công trình ở mặt tiền biển. Chỉ với hai tòa nhà vượt quá giới hạn trong khu vực Meirele và Náutico, trong lúc các tòa nhà khác tuân theo luật tiểu bang. Maia et al. (1996) đã quan sát thấy rằng từ thời điểm năm 1974 đến 1994, vận tốc gió trung bình giảm 1,1 m/s và nhiệt độ trung bình tăng 0,8° C trong thành phố. Thời kỳ phân tích của họ trùng khớp với thời kỳ phát triển nhiều tầng xuôi theo mặt biển của Fortaleza, mặc dù thế cần nghiên cứu thêm ảnh hưởng của đô thị hóa sát biển đến vi khí hậu đô thị.

Hình 1. Phân phối các tòa nhà theo số tầng cho từng khu vực đô thị (B1 – B17) xuôi theo bờ biển du lịch của Fortaleza trong năm 2010 (nguồn: Paula et al. 2013)

Những hệ quả và bàn bạc

Đất đai sát biển được quy hoạch kém và sự tiến lên nhanh gọn của bãi biển đã làm giảm chất lượng hệ sinh thái của những bờ biển và vì vậy đã làm giảm ưu thế cạnh tranh của những khu du lịch này so với các khu vực du lịch nơi bãi biển được bảo tồn tốt hơn. Quá trình này được gắn kết với việc biến đổi không gian tự nhiên thành không gian nhân tạo.

Ở nhiều đô thị Bra-xin, đường bãi biển được định rõ bởi các cấu trúc nhân tạo đô thị hóa (chẳng hạn: đường tòa nhà, vỉa hè, đường lớn và đường bộ). Bởi thế, tính dễ bị tổn thương sát biển được định rõ bởi mức độ đô thị hóa sát biển (Hình 2). Với các KĐT hóa gần biển, sóng dễ dàng tiếp xúc cơ sở hạ tầng đô thị và gây hiểm nguy cho hệ thống thoát nước, cống rãnh, cột đèn, đường, làn xe đạp, quảng trường, chợ cá, tượng, nhà ở, tòa nhà và vỉa hè. Chính phủ tiếp nối cần phải đầu tư vào bảo vệ bãi biển để chặn lại hao tổn về tài sản. Có nhà nghiên cứu nhấn mạnh rằng việc xây dựng trên đất cát và dải bờ biển có bề rộng dưới 150 m nên tránh do nguy cơ lũ lụt và xói mòn do sóng.

Hình 2 . Sóng vỗ vào vỉa hè và làm ngập bờ biển Iracema trong cơn giông bão tháng 12 năm 2009.
Nguồn: Rapha Bessa.

Đô thị hóa là 1 nhân tố chính quyết định tính dễ bị tổn thương của đường bãi biển đối với các event sự kiện năng lượng cao (bão). Điều quan trọng là những event sự kiện này tưởng chừng như đang tăng lên về tần số, cường độ và ảnh hưởng đến cơ sở hạ tầng sát biển. Theo thông tin được đưa ra bởi thành phố Fortaleza, kinh phí kiến thiết lại các khu vực bị tác động là rất cao và Fortaleza đã chi hơn 120 triệu Dola trong các năm 2000 cho những việc như thế. Dự trù, vào năm 2014, kinh phí là hơn 400 triệu đô la Mỹ, làm trầm trọng thêm mức độ ảnh hưởng hệ sinh thái và có thể đạt đến mức chi tiêu kinh tế không vững bền.

Jucá (2000), dựa trên các report báo cáo thời đó, dự tính rằng khoảng 200 m bờ biển đã bị xói mòn trong thời gian 10 năm, với vận tốc xói mòn trung bình khoảng 20 m / năm. Trong các năm 1970, các vấn đề xói mòn vẫn tiếp diễn xuôi theo bãi biển Fortaleza. Đến năm 1975, bãi biển của Fortaleza đã bị thay đổi 1 cách nhân tạo bởi 12 mỏ hàn, 4 tường chắn rip-rap, 2 cây cầu, một cầu tàu dầu và 2 đê chắn sóng, trải dài giữa Cảng Mucuripe và cửa sông Ceará. Vào cuối những năm 1970, bãi biển phía tây của Fortaleza hoàn toàn nhân tạo, chủ yếu được định rõ bởi các cấu trúc kỹ thuật cứng sát biển được xây dựng để đối phó với xói mòn do việc xây dựng cảng. Đường bãi biển hiện nay đã hoàn toàn là nhân tạo. Rất may mắn là các đô thị biển Việt Nam hiện chưa bị ảnh hưởng nhiều bởi các cấu trúc nhân tạo sát biển này.

Sự tiến lên không được kiểm soát của mặt tiền biển của Fortaleza đã dẫn đến sự hiếm hoi không gian xanh, được thay thế bằng mặt đường nhựa và bê tông, các nguyên liệu giữ nhiệt và tăng nhiệt độ trong thành phố. Bao trùm thành phố bằng các nguyên liệu không thấm nước, như nhựa đường và bê tông, giúp tăng nguy cơ lũ lụt, vì cả đất nước mưa và nước biển có thể tích tụ gần bãi biển, như đã xảy ra tại Bờ biển Iracema. Một nhân tố khác đóng góp thêm phần làm tăng nguy cơ lũ lụt ở các khu vực của Fortaleza là việc đào các dải cát to lớn cho nhiều công trình phía đằng trước biển.

Một kết quả không đáng có của quá trình đô thị hóa mạnh mẽ của thành phố Đà Nẵng cũng như Fortaleza, nhất là mặt biển, là mạng lưới thoát nước dường như không thể đối phó với dân số càng ngày càng tăng khiến nước thải bị đổ phi pháp vào cống thoát nước mưa. Một khi nước này đến sông và bờ biển, ô nhiễm và độc hại vượt quá giới hạn sức khỏe cho phép để tắm. Các bờ biển trên bãi biển du lịch có nồng độ coliforms cao liên quan đến nước mưa mang đi nước thải. Không những thế, sự tăng lên sản xuất rác thải sinh hoạt sau cùng làm tắc nghẽn cống và ngăn dòng chảy trầm tích ra bờ biển.

Sự chiếm đóng quy hoạch kém của những khu vực sát biển đã dẫn đến sự giả tạo của phong cảnh, làm giảm khả năng hồi phục hệ sinh thái. Việc xây dựng hạ tầng đô thị và ổn định cồn cát đã đóng góp thêm phần làm mất cân bằng nguồn cung ứng trầm tích cho những bờ biển ở bãi biển phía bắc của Fortaleza. Việc đẩy mạnh đô thị hóa ở mặt biển đã cố định 1 cách hiệu quả khu vực bãi biển, cản trở sự huy động tự nhiên của trầm tích giữa bờ biển nổi và chìm. Mất khả năng di chuyển của bãi biển khiến nó dễ bị xói mòn nghiêm trọng hơn trong trường hợp có bão.

Để chặn lại các ảnh hưởng sát biển và cho phép hồi phục bờ biển, việc nuôi dưỡng bờ biển cần phải được triển khai ở một vài khu vực. Các bãi biển được cải tạo nhân tạo cung ứng hai ích lợi: tăng S diện tích giải trí và bảo vệ tốt hơn trước các cơn giông bão sát biển. Kinh phí cao để giữ cho bãi biển an toàn và có đủ chất lượng hệ sinh thái để lôi cuốn du lịch phải được chính phủ Bra-xin chi trả. Điều đó cho thấy sự không vững bền dài lâu của những hoạt động kinh tế địa phương không tương thích với khả năng hỗ trợ của những bờ biển.

Trong tương lai, ích lợi kinh tế, tiềm năng du lịch và chất lượng hệ sinh thái cần phải được các cơ quan kế hoạch để tâm đến thận trọng, cho phép dự tính thật sự về tính vững bền hay nói theo một cách khác là mô hình phát triển nhà nhiều tầng sát biển hiện tại.

tiến sĩ.KTS Nguyễn Anh Tuấn
Phó Trưởng khoa – Khoa Kiến trúc, trường Đại học Bách khoa – Đại học Đà Nẵng

© TCKT

Thêm nhiều thông tin hấp dẫn với BdsNhaDat.com.vn



T.H

Tham gia thảo luận

So Sánh BĐS

So sánh