Chủ đầu tư xin được đầu tư xây dựng kinh doanh các công trình trên đất dịch vụ của dự án
Hiệp hội BDS TP Hồ Chí Minh (HoREA) vừa gửi đề xuất lên Thủ tướng Chính phủ và Bộ Xây dựng về sự việc sửa đổi, bổ sung Điều 35 Nghị định 11/2013/NĐ-CP.
Theo ông Lê Hoàng Châu – Chủ tịch HoREA, trong mấy chục năm trước đó, khi thị trường BDS còn sơ khai thì những chủ đầu tư dự án KĐT, khu nhà ở đều ước muốn chuyển giao cho địa phương quản lý vận hành các công trình hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội của dự án (như đất y tế, giáo dục, công viên xanh vui chơi và giải trí…) để “rảnh nợ” vì khó quản lý vận hành và khó kinh doanh.
Nhưng khoảng hơn 10 năm vừa mới đây, các chủ đầu tư lại có mong muốn đầu tư kinh doanh các công trình này trong phạm vi dự án. “Đây là nhu cầu hợp pháp, chính đáng vừa thích hợp với chủ trương xã hội hóa đầu tư các công trình dịch vụ và tiện ích đô thị phục vụ ích lợi công cộng mà Nhà nước không phải bỏ ngân sách để đầu tư”, ông Châu nói.
Ông Châu cho rằng, nếu chủ đầu tư dự án được làm thì sẽ vừa bảo đảm có các dịch vụ, tiện ích đô thị phục vụ người dân trong dự án, cho cả khu vực gần kề và khách vãng lai theo quy hoạch chi tiết mật độ 1/500 đã được phê duyệt. Trong lúc nếu chuyển giao các khu đất này cho địa phương thì không biết đến lúc nào mới sắp đặt được vốn ngân sách nhà nước để đầu tư các công trình phúc lợi công cộng này, tăng nguồn thu ngân sách nhà nước.
Không chỉ có vậy, xét về nguồn gốc thiết lập quỹ đất và kết cấu hạ tầng xã hội này là do sức lực đầu tư xây dựng của chủ đầu tư dự án KĐT, khu nhà ở.
Trong lúc ấy, chủ đầu tư dự án KĐT, khu nhà ở đã bỏ ra nguồn chi phí rất to lớn (thường từ vài chục tỷ VNĐ đến hàng trăm tỷ VNĐ thậm chí đến hàng nghìn tỷ VNĐ) để nhận sang nhượng quyền sở hữu đất đai, giải phóng mặt bằng để thiết lập quỹ đất dự án đầu tư KĐT, khu nhà ở.
Tiếp nối, phải triển khai nghĩa vụ tài chính, nộp tiền sử dụng đất cho Nhà nước với giá trị rất to lớn (thường bằng khoảng 70-80% kinh phí giải phóng mặt bằng).
Tiếp nối là kinh phí đầu tư xây dựng san lấp mặt bằng, xây lắp các công trình kết cấu hạ tầng của dự án (như đường giao thông, hệ thống thoát nước và xử lý nước thải, hệ thống cấp nước sạch, cấp điện, chiếu sáng công cộng, thông tin liên hệ, internet, công viên xanh, kết nối hạ tầng đất y tế, giáo dục, vui chơi và giải trí); kinh phí vốn; kinh phí quản lý…
Thế nhưng, bất cập hiện tại của của Điều 35 Nghị định 11/2013/NĐ-CP là chủ đầu tư dự án KĐT, khu nhà ở có mong muốn lại không được đầu tư xây dựng kinh doanh các công trình trên đất dịch vụ này.
“Điều đó là phi lý và không bảo đảm được quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp”, ông Châu đánh giá.
Do đó, HoREA kiến nghị bổ sung khoản 4 (mới) Điều 35 Nghị định 11/2013/NĐ-CP luật lệ tương đương content nội dung khoản 3 Điều 31 Nghị định 31/2021/NĐ-CP, để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống luật pháp và tạo điều kiện cho chủ đầu tư dự án KĐT, khu nhà ở có mong muốn thì được đầu tư xây dựng kinh doanh các công trình trên đất y tế, đất giáo dục, đất công viên vui chơi và giải trí, công viên chuyên đề trong phạm vi dự án…
HoREA cũng đề xuất Thủ tướng Chính phủ và Bộ Xây dựng bổ sung điểm a khoản 7 Điều 4 Nghị định 11/2013/NĐ-CP cho phép cá nhân, hộ gia đình có mặt sàn nhà tại các địa điểm không thuộc trục đường chính của đô thị loại 3, loại 4, loại 5 được tự xây dựng “dần” nhà ở trong kì hạn (có thể tối đa không quá 5 năm).
Cụ thể, dự án thích hợp với nhiều cấp độ quy hoạch đô thị; đã hoàn tất đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng theo phân kỳ đầu tư dự án; có các giải pháp quản lý bảo đảm việc xây dựng nhà ở tuân thủ content nội dung và tiến độ của dự án.
UBND cấp tỉnh quy xác định vị trí trí cụ thể của dự án KĐT, khu nhà ở tại các đô thị loại 3, 4, 5 cho phép cá nhân, hộ gia đình được tự xây dựng nhà ở trong kì hạn không quá 5 năm thích hợp với đặc thù tình hình của địa phương…
Thêm nhiều thông tin hấp dẫn với BdsNhaDat.com.vn ✔
T.H