Sau 2 năm phải đối đầu với khá nhiều tổn hao và trở ngại về mặt kinh tế xã hội và đời sống do tác động của đại dịch Covid, các đô thị Việt Nam đang dần hồi phục, và phải chuẩn bị cho việc bức tốc từ thời điểm năm 2022, để bù lại thời gian đã mất đi. Điều trước tiên để cần làm để sự bức tốc ấy có thể trở thành hiện thực, là phải thay cải tiến tư duy phát triển trong mọi lĩnh vực của xã hội, nhất là việc tạo điều kiện cho tư duy cải tiến vượt bậc trong việc khai thác các thời cơ phát triển mới mang tính sách lược. Bài viết nhìn lại những thách thức lớn, đồng thời cũng chính là những thời cơ sách lược lớn, có thể giúp tạo thành các xu hướng phát triển mới tại các đô thị Việt Nam trong vài thập niên sắp tới.
Những thách thức và thời cơ sách lược mới
1. Phát triển đô thị trong vòng nhìn kết nối và hợp tác Vùng đô thị
Trên thế giới thời nay, sự cạnh tranh toàn thế giới đang chuyển từ cạnh tranh giữa những nước, sang cạnh tranh giữa những đô thị, nhất là cạnh tranh giữa những vùng đô thị và các vùng kinh tế lớn. Kể từ thời điểm năm 2009, Việt Nam có bốn vùng kinh tế trọng điểm (KTTĐ), gồm có Vùng KTTĐ Bắc Bộ, Vùng KTTĐ miền Trung, Vùng KTTĐ phía Nam và vùng KTTĐ Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), với đô thị hạt nhân đặt tại thành phố Hà Nội, Thành Phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, và Cần Thơ, được coi là những vùng kinh tế động lực làm đầu tàu kéo theo sự tiến lên của những địa phương trên cả đất nước.
Mặc dù thế, trong lúc sức cạnh tranh của những đô thị Việt Nam đang càng ngày càng được nâng cao, thì sức cạnh tranh của những vùng kinh tế và vùng đô thị vẫn còn chưa cao, chưa phát huy được hết tiềm năng, ưu thế đang có, để tận dụng được các cơ hội và thời cơ phát triển.
Những thời cơ phát triển của bốn vùng kinh tế trọng điểm trong tương lai, sẽ liên kết nghiêm ngặt với ba thách thức lớn:
- Đầu tiên, là phải tạo thành được hệ thống hạ tầng kỹ thuật và giao thông kết nối nội vùng với liên vùng. Đó sẽ là tiền đề quan trọng cho việc chia sẻ các hạ tầng trọng điểm với tầm nhìn vùng, thay vì tầm nhìn cục bộ địa phương. Giả dụ, Thành Phố Hồ Chí Minh vẫn giữ vững địa thế trung tâm vùng, mà dường như không cần cạnh tranh về quy mô hạ tầng với các tỉnh thành trong vùng, nếu xây dựng được mối gắn kết tốt với cảng hàng không lớn nhất vùng ở Đồng Nai, cảng biển lớn nhất vùng ở Bà Rịa Vũng Tàu, và ga đường sắt lớn nhất vùng ở Bình Dương.
- Thứ 2, là phải tạo thành được cơ quan chính quyền vùng năng động và hiệu quả, gồm có thay mặt đại diện của lãnh đạo trung ương và của lãnh đạo các tỉnh thành trong vùng, để cùng nhau vạch ra các sách lược và chương trình hợp tác, phát triển gắn kết vùng.
- Thứ 3, chính quyền vùng phải cùng nhau định rõ được việc phân công phân bố tổng thể lực lượng sản xuất, dịch vụ, phân bố nguồn nhân lực, logistics, giao thương, trách nhiệm xã hội trong việc phát triển vững bền và bảo vệ hệ sinh thái chung, ứng phó với chuyển đổi khí hậu và nước biển dâng, … giữa những tỉnh thành trên tư duy vùng, thay vì tư duy địa phương theo địa giới hành chánh, để tăng hiệu quả gắn kết vùng kinh tế, tránh thực trạng cạnh tranh thiếu lành mạnh.
2. Xây dựng TP trong TP
Tiếp sau việc Thành Phố Hồ Chí Minh thành lập Thành phố Thủ Đức, thì thành phố Hà Nội, Hải Phòng, và một vài tỉnh thành đang chuẩn bị tiến lên đô thị trực thuộc trung ương (Quảng Ninh, Thừa Thiên Huế, Khánh Hòa,…) cũng đang có dự định sẽ thành lập TP trong TP.
Trên thế giới hiện tại, so với việc tạo thành siêu đô thị cực đại, thì việc phát triển cụm các đô thị lớn nhỏ đa trung tâm của thành phố lớn, nằm ở trong hệ thống mạng lưới các đô thị trong vùng đô thị, được coi là phương pháp vững bền và phát triển hài hòa hơn. Bạn có thể tham khảo các điển cứu trên thế giới như Haut-de-Seine (gồm có La Défense) và Paris (Pháp), Phố Đông, Thượng Hải (Trung Quốc),…
Tuy Thành phố Thủ Đức có nhiều tiềm năng phát triển theo hướng thành phố trong thành phố, nhưng chúng ta cần nghiên cứu kỹ, tập trung tạo các nền tảng pháp lý cấp bách, và tạo động lực làm cho Thành phố Thủ Đức có thể phát triển vượt bực như kì vọng, chứ chớ nên mang danh thành phố nhưng lại chỉ vận hành như 1 quận huyện lớn.
Việc xây dựng Thành phố Thủ Đức trong Thành Phố Hồ Chí Minh buộc phải hướng tới thành công như 1 đô thị modern hiện đại hoàn chỉnh và như 1 đơn vị kinh tế năng động và độc lập, trước lúc suy xét việc nhân rộng mô hình này ra cả đất nước. Trong đó cần chú ý việc:
- Tích hợp quy hoạch Thành phố Thủ Đức hài hòa trong tổng thể quy hoạch chung của Thành Phố Hồ Chí Minh và quy hoạch Vùng Đô thị Thành Phố Hồ Chí Minh;
- Dành cơ chế đặc điểm và sự tự chủ cao của Thành phố Thủ Đức ở cấp phó tỉnh trở lên (cao hơn cấp quận huyện và cấp Sở) để có đủ quyền hạn cấp bách với vai trò chủ động trong việc hấp dẫn đầu tư và quản lý các dự án chỉnh trang và phát triển đô thị;
- Phát triển đô thị mới modern hiện đại, hấp dẫn được trên 500 ngàn người dân mới, đa phần là nhân lực có trình độ cao, nhưng vẫn không bỏ quên việc chỉnh trang và cải thiện đời sống cho một triệu người dân hiện hữu;
- Khuyến nghị khai phá những lĩnh vực động lực mới (tài chính quốc tế, công nghệ cao, công nghệ số, công nghệ sinh học,…) mang lại hiệu quả tốt bậc nhất về mặt kinh tế xã hội.
- Phát triển vững bền, đô thị xanh theo quy chuẩn quốc tế, tiết giảm ảnh hưởng hệ sinh thái, ứng phó tốt với chuyển đổi khí hậu, nước biển dâng.
3. Phát triển Đô thị cảng hàng không
Đô thị cảng hàng không là 1 mô hình kinh tế mới của thế kỷ 21 đang được xây dựng mới tại nhiều nước hiện đại (Chengdu, Amsterdam, Dallas-Fort Worth, Singapore,…) và cũng đang được nghiên cứu kế hoạch chỉnh trang tại đa phần các cảng hàng không lớn trên thế giới, trên nền tảng thay đổi từ tư duy quản lý cũ sang tư duy cải tiến vượt bậc, từ ý kiến “Đô thị hóa đến đâu dời cảng hàng không đến đó” sang “Quy hoạch đô thị song hành với quy hoạch cảng hàng không”, và từ việc chuyển giá trị khai thác khu cảng hàng không và sát bên từ địa thế trung chuyển (transit) sang địa thế điểm đến (destination).
Không phải tỉnh thành nào có cảng hàng không cũng có thể phát triển mô hình đô thị cảng hàng không 1 cách hiệu quả, mà thường chỉ dừng ở mức tích hợp quy hoạch cảng hàng không với quy hoạch đô thị. Tại Việt Nam, Tân Sơn Nhất (Thành Phố Hồ Chí Minh), Long Thành (Đồng Nai), Nội Bài (thành phố Hà Nội), Đà nẵng, Cam Ranh, … là các khu vực có tiềm năng cao về phát triển đô thị cảng hàng không.
Trong đó, Đà Nẵng có thể sẽ đi đầu cả đất nước trong việc xây dựng đô thị cảng hàng không, vì đó Đà Nẵng vừa có điều kiện phát triển thuận tiện, vừa có mong muốn sách lược:
- Phát triển đô thị tại khu vực nằm ở trong vùng tác động của phễu bay vẫn chưa nhiều, do vậy vẫn còn thời cơ tổ chức lại quy hoạch cảng hàng không phối kết hợp hài hòa với quy hoạch đô thị;
- Đà Nẵng tới nay vẫn chưa kiếm được một vùng đất khả thi để dời cảng hàng không trong tầm cách ~40 Kilomet đến trung tâm đô thị;
- Mô hình đô thị cảng hàng không Đà Nẵng được nghiên cứu sẽ gồm có Tiểu vùng Đô thị cảng hàng không Đà Nẵng (Danang Aerotropolis), với phần lõi là Phân khu Cảng hàng không Đà Nẵng (Danang Airport City);
- Quy hoạch đô thị cảng hàng không Đà Nẵng có thể theo kịch bản phát triển hai giai đoạn. Giai đoạn đầu, dự định trong 2-3 thập niên ưu tiên phát triển về lượng (tăng quy mô cảng hàng không, tăng quy mô phát triển hạ tầng và đô thị). Đến giai đoạn tiếp nối, sau thời điểm xây dựng được cảng hàng không Chu Lai (cách ~110 Kilomet) và cảng hàng không Phú Bài (cách ~80 Kilomet) và trục đường giao thông công cộng và cao tốc kết nối vùng giữa cảng hàng không Đà Nẵng với các cảng hàng không này, thì có thể chuyển qua ưu tiên phát triển về chất (không khuyến nghị tăng quy mô mà tăng chất lượng phục vụ tại cảng hàng không Đà Nẵng, trong lúc chia sẽ bớt áp lực về vận tải hàng không của Đà Nẵng cho Chu Lai và Phú Bài).
4. Phát triển hạ tầng đô thị tương lai theo Tư duy Kinh tế Thị trường
Kể từ lúc Đại hội đại biểu cả nước lần thứ VI khởi xướng chính sách cải tiến vào năm1986 cho đến thời điểm bây giờ, nền kinh tế Việt Nam đã phát triển rất nhanh, nhờ vào việc biến đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo xác định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thời nay, Việt Nam hiện có 870 đô thị với 2 đô thị đặc biệt, 22 đô thị loại I và 32 đô thị loại III… Đô thị hóa ở Việt Nam chỉ chiếm 40% dân số và hơn 7,4% S diện tích đất tự nhiên. Khi nhu cầu xây dựng phát triển hạ tầng các đô thị yêu sách nguồn chi phí rộng lớn hàng tỷ Dola, trong tình hình ngân sách công còn hạn chế, thì việc cải tiến tư duy quản lý và phát triển theo tư duy kinh tế thị trường không chỉ có thách thức lớn, mà còn là thời cơ lớn cho việc rộng mở phát triển đô thị trong tương lai tại Việt Nam. Trong đó có hai vấn đề cần phải được quan tâm bậc nhất:
- Đầu tiên, phát triển đô thị cần song hành với việc bảo đảm an cư lạc nghiệp cho những người dân. Giả dụ, đền bù giải tỏa đúng giá thị trường cho những người dân, để không làm chậm tiến độ dự án, và tổ chức các khu tái định cư kèm theo thời cơ việc làm, để cư dân sớm ổn định cuộc sống mới.
- Thứ 2, cần cải tiến tư duy quản lý đơn ngành sang đa ngành, và tận dụng các thời cơ tạo nguồn thu giúp tăng ngân sách. Giả dụ, thay cho chỉ giao Sở Giao thông Vận tải xây dựng cơ sở hạ tầng như cách làm cũ, thì giao cho cơ quan liên sở (phối cùng Sở Quy hoạch Kiến trúc, Sở Xây dựng, Sở Kế hoạch Đầu tư,… ) để triển khai dự án 1 cách toàn diện hơn, từ việc nghiên cứu, giải tỏa đất sạch, quy hoạch hai bên tuyến, đấu giá dự án, để hấp dẫn kinh phí đầu tư hạ tầng, cho tới phương pháp tăng thu ngân sách từ việc tận dụng thời cơ tăng mạnh giá trị địa ốc của khu vực sau thời điểm xây dựng mới hạ tầng,… Mô hình này đã được vận dụng thành công khi phát triển hạ tầng tại nhiều nước, cũng như tại Đà Nẵng và tại Thành Phố Hồ Chí Minh (đường Nguyễn Hữu Thọ, đường Nguyễn Văn Linh,…), và rất cần phải được nghiên cứu khoa học và tạo nên những hành lang pháp lý thích hợp, để có thể nhân rộng trên cả đất nước.
5. Quản lý Đô thị thông minh
Trong thế kỷ công nghệ thông tin và toàn thế giới hóa, việc phát triển công nghệ quản lý đô thị thông minh đang trở thành xu hướng tất yếu của những đô thị tiên tiến trên thế giới.
Tại Việt Nam cho đến thời điểm bây giờ, trên 40 trong những số 63 tỉnh thành của cả đất nước đã hoặc đang thực hiện xây dựng các đề án phát triển đô thị thông minh. Trong đó, thành phố Hà Nội, TP. HCM, Quảng Ninh, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Bình Dương, … đã đạt được rất nhiều tiến bộ đáng lưu ý với khá nhiều tiềm năng lớn trong tương lai. Mặc dù thế, cần thẳng thắn nhìn nhận rằng Việt Nam vẫn chưa có tỉnh thành nào đã thực sự trở thành đô thị thông minh đúng nghĩa.
Nói chung, sách lược phát triển đô thị thông minh tương lai tại Việt Nam buộc phải tiếp tục vượt qua được bốn thách thức lớn:
- Đầu tiên, là chọn được mô hình đô thị thông minh thích hợp nhất cho việc phát triển kinh tế xã hội của từng địa phương, trong đó không cần phải thông minh về mọi mặt, và thậm chí không nhất thiết đô thị nào cũng cần trở thành thông minh.
- Thứ 2, bộ máy quản lý đô thị cần cải tiến từ tư duy đơn ngành sang tư duy hợp tác đa ngành, tích cực chia sẻ thông tin số hóa với nhau qua mạng và phối cùng nhau hoạt động hiệu quả. Nhân tố con người này trong việc phát triển đô thị thông minh có vai trò rất quan trọng, có thể còn quan trọng hơn nhân tố công nghệ.
- Thứ 3, công nghệ thông minh chỉ hỗ trợ, nhưng không thay thế cho việc buộc phải nâng cao hiệu quả quản lý đô thị theo những tiêu chuẩn, tiêu chuẩn đất nước và quốc tế.
- Thứ 4, cần chuẩn hóa công nghệ thông tin đất nước để phát triển nền kinh tế số, và để các đô thị thông minh trong những vùng đô thị trên cả nước có thể kết nối và hợp tác với nhau 1 cách hiệu quả.
Kết luận
Trong những số năm hạng mục sách lược này, có ba hạng mục mới chưa có tiền lệ hoặc điển cứu thành công tại Việt Nam (TP trong TP, đô thị cảng hàng không, đô thị thông minh), và có hai hạng mục tuy không mới nhưng rất cần cải tiến tư duy triển khai, sau vài nhiều thập niên triển khai với kết quả chưa cao (hợp tác vùng đô thị, Tư duy kinh tế thị trường trong phát triển đô thị).
Đây sẽ là năm thách thức, đồng thời cũng chính là năm thời cơ lớn, cho việc tạo động lực và bức tốc phát triển cho nhiều đô thị bậc nhất trên cả đất nước hiện tại.
Tiền đề quan trọng cho việc nghiên cứu, xây dựng, đem vào triển khai năm hạng mục sách lược này là việc tùy chỉnh bổ sung các cơ sở pháp lý, các tiêu chuẩn quy phạm, và các luật lệ có liên quan, để có thể tạo điều kiện cho nhà nước, nhà đầu tư, nhà doanh nghiệp, chuyên gia, và cư dân cùng hợp tác và phối cùng nhau trong tiến trình triển khai.
Việc khai phá các thời cơ sách lược này, với tư duy sáng tạo và liên phối hợp tác đa ngành nội địa và nước ngoài, sẽ đóng góp thêm phần giúp nâng cao phát triển kinh tế xã hội, đồng thời mang lại những thay đổi lớn mang tính tích cực cho diện mạo của đô thị tương lai tại Việt Nam!
TSKH.KTS Ngô Viết Nam Sơn
(Bài đăng trên Tạp chí Kiến trúc số 12-2021)
Tài liệu Tham khảo
- Huy Khánh. 2021 – Phỏng vấn tiến sĩ Ngô Viết Nam Sơn: Phát triển Thành phố Thủ Đức là 1 thử thách cực đại, cần phải được chuẩn bị bài bản. Báo Kinh tế Đô thị 18-01-2021.
- Ngô Viết Nam Sơn. 2019 – Những vấn đề sách lược trong phát triển KĐT cảng hàng không tại Đà Nẵng. Tạp chí Kiến trúc số 02-2019.
- Ngô Viết Nam Sơn. 2021 – Một vài xu thế và tư duy mới trong quy hoạch kiến trúc tại Việt Nam – Tạp chí Kiến trúc số Xuân 2021 (12-2020). Pp. 100-103. Hội Chuyên gia thiết kế Việt Nam.
- Ngô Viết Nam Sơn. 2021 – Tầm nhìn trăm năm cho TP Hồ Chí Minh: Kịch bản Phát triển Kinh tế biển nào cho Cần Giờ? Báo Người Đô thị. 26/05/2021.
- Ngô Viết Nam Sơn. TP trong TP. Ngô Viết Nam Sơn. Tạp chí Forbes số 90 (11/2020). Pp. 19-20.
- Phóng viên. 2017 – Phỏng vấn TSKH.KTS. Ngô Viết Nam Sơn: “Trọng tâm của đô thị thông minh là con người, tiếp đến mới đến quản lý công nghệ”. Tạp chí Kiến trúc số 6/2017. Hội Chuyên gia thiết kế Việt Nam.
Thêm nhiều thông tin hấp dẫn với BdsNhaDat.com.vn ❗
Theo _PV