Xây dựng đô thị bền vững từ phát triển thành phố công trình xanh: Kỳ vọng của các thành phố Việt Nam 10 – 15 năm tới ✅


Đô thị vững chắc – Đô thị xanh, đô thị thông minh

Đô thị vững chắc

Danh từ Đô thị vững chắc sinh ra sau thời điểm các tổ chức liên hiệp quốc (LHQ) thống nhất đề ra khái niệm “Phát triển vững chắc / Sustainable development” năm 1991. Đặc biệt, khi Hội nghị thượng đỉnh địa cầu về hệ sinh thái và phát triển năm 1992 kinh qua “Chương trình nghị sự 21 (Agenda 21)”, tiếp nối 179 nước tham dự cam đoan tuân theo và phê chuẩn các “Chương trình phát triển vững chắc” của nước ta. Trong ba content nội dung căn bản của phát triển vững chắc (PTBV), thì content nội dung trước tiên là vững chắc môi trường (Ecological Sustainability) – trong đó yêu sách bảo tồn các hệ thống giúp đỡ cho sự sống); vững chắc hệ sinh thái (Environmental Sustainability), vững chắc xã hội (Social Sustainability) [1,2].

Tòa nhà xanh tại các nước: Anh, Trung quốc, Singapore, Australia
Source: Solidiance Research and Analysis based [6]

Đô thị vững chắc là đô thị trong đó các Môi trường tự nhiên và nhân tạo (do con người tạo nên) có đủ điều kiện để bảo tồn, tái hiện và phát triển, nhờ vào đó hệ sinh thái sống được cân bằng, trong sạch, vệ sinh.

Gần 1,5 thế kỷ qua, đô thị hóa đang phát triển rất nhanh trên thế giới. Năm 1880 mới chỉ với 4% dân số thế giới sống trong những đô thị. 20 năm sau, năm 1900, dân số đô thị đã gia tăng 14%. Năm 2000 có 2,8 tỷ người (~47%) sống ở các đô thị, và năm 2007 có hơn 50% dân số thế giới (3,2 tỷ người) sống ở các đô thị (thống kê LHQ). Theo dự báo của LHQ và Ngân hàng thế giới (WB) tới năm 2025 sẽ có 2/3 dân số thế giới, khoảng 5 trong 8 tỷ người, sống trong những đô thị. Một dự báo khác, năm 2050 trên thế giới sẽ có 85% dân số sống trong những thành phố.

Mặc dù thế, điều lo âu nhất của thế giới hiện tại là quá trình đô thị hóa yêu sách nhu cầu xây dựng các công trình nhà ở, giao thông, phục vụ văn hóa đời sống càng lớn, điện năng từ đốt nhiên liệu hóa thạch để phục vụ con người tiêu thụ càng ngày càng nhiều, thải vào khí quyển Carbon dioxide (CO2), là “khí nhà kính / Greenhouse Gas” (GHG) chủ yếu, làm nóng Địa cầu, gây ra chuyển đổi khí hậu (Climate Change). Thống kê cho thấy, trong thế kỷ 20 năng lượng hóa thạch tiêu thụ trên thế giới đã tăng 17 lần (riêng Nhật Bản tăng 74 lần).

Đô thị hóa cũng làm mất đất canh tác, hủy hoại rừng cây, lấp kín nhiều ao hồ. Tại nước Anh trong thế kỷ 20 đã mất 20% đất nông nghiệp, làm suy thoái tài nguyên, còn chất thải đô thị làm xấu hệ sinh thái sống của con người. Các nhà khoa học cảnh báo: Các đô thị sẽ “ngốn” một vùng đất có S diện tích tương tự Nam Phi (1,2 triệu km2), hủy hoại các sinh vật cảnh, hủy diệt khoảng 200 loài sinh vật và làm giảm số lượng thực vật. Nghiên cứu cũng phán đoán châu Á sẽ là châu lục mất không ít đất nhất vì sự đi lên của đô thị (55% tổng thể diện tích đất mà các thành phố đánh chiếm trên toàn thế giới).

Đô thị xanh

Khái niệm Đô thị xanh xuất hiện sau thời điểm trào lưu CTX sinh ra. Mặc dù thế, khi bàn về Đô thị xanh, một tiêu chuẩn quan trọng không thể bỏ qua là “Không gian xanh / Green Space), xét đến mật độ vườn cây và công viên đô thị trên mỗi dân cư. Quốc gia Singapore chỉ với S diện tích 692,7 km2, trong đó 10 km2 là mặt nước, nhưng có đến 66 mét vuông không gian xanh cho mọi người, nên đi đâu ta cũng gặp không gian xanh. TP Vienna có 120 mét vuông không gian xanh cho từng dân cư, được xem là “TP đáng sống nhất (most liveable citie)” châu Âu. Tổ chức Y tế thế giới (WHO) khuyến cáo, xét về sức khỏe cộng đồng, mỗi thành phố tối thiểu phải có 9 mét vuông không gian xanh cho mọi người, tốt hơn hết là 10 – 15 mét vuông. thành phố Hà Nội hiện tại chỉ với 0,9 mét vuông/ người, thấp hơn 10 lần khuyến cáo của WHO (Cục phát triển đô thị Bộ Xây dựng: “Quy hoạch chung thành phố Hà Nội đến năm 2030 và tầm nhìn đến 2050”) [2].

Như thế, Đô thị vững chắc / xanh phải đạt được một vài tiêu chuẩn quan trong nhất: (1) Đô thị tiêu thụ ít năng lượng (xanh về năng lượng), (2) Thải ít khí CO2 (xanh về hệ sinh thái), (3) Có mật độ không gian xanh lớn (xanh về hệ sinh thái sống), (4) Bảo tồn và tôn tạo môi trường (xanh về sinh thái).

Khi quan tâm riêng về hệ sinh thái và sinh thái, có thể gọi tên Đô thị sinh thái (Ecologic City), nhưng khái niệm Đô thị xanh toàn diện hơn. Đô thị xanh sẽ đảm bảo sự đi lên vững chắc, và là Đô thị vững chắc, đô thị đáng sống đối với mỗi dân cư. Như thế, ta có thể đồng hóa hai khái niệm Đô thị vững chắc và Đô thị xanh: Đô thị phải Xanh để Vững chắc.

Đô thị thông minh (ĐTTM)

Liên minh châu Âu định nghĩa: “ĐTTM là nơi các mạng và dịch vụ cổ truyền được triển khai hiệu quả hơn với việc sử dụng các công nghệ kỹ thuật số và viễn thông vì ích lợi của dân cư và doanh nghiệp… nhờ vào đó sử dụng tài nguyên tốt hơn, giảm phát thải gây ô nhiễm và độc hại. ĐTTM có nghĩa là mạng lưới giao thông đô thị thông minh hơn, các cơ sở cấp nước và xử lý chất thải được upgrade nâng cấp cũng giống như các cách hiệu quả hơn để chiếu sáng và sưởi ấm các tòa nhà…”.

Như thế, ĐTTM là đô thị sử dụng dịch vụ công nghệ cao (công nghệ số và viễn thông) trong không ít hoạt động thiết yếu liên quan đến cuộc sống của dân cư (giao thông, quản lý cung ứng nước sạch, năng lượng, chiếu sáng, dịch vụ,…), nhờ vào đó nâng cao tiện nghi cuộc sống, tiết kiệm thời gian, kinh phí và cả năng lượng. Trong giai đoạn công nghệ số đang phát triển và đạt được thành tựu nhẩy vọt, việc xây dựng đô thị thông minh là hết sức khẩn cấp trong những đô thị [2].

Thế nhưng, ĐTTM khác hẳn với đô thị vững chắc, cả về khái niệm và cách thực hành. Đô thị trước lúc trở thành ĐTTM, phải là 1 đô thị vững chắc/ xanh. Đấy là đô thị góp thêm phần vào sự đi lên vững chắc thế giới và ngăn ngừa thảm họa BĐKH.

Công trình xanh và Thành phố công trình xanh (Cities for green buildings)

Trào lưu Công trình xanh thế giới

Khi BĐKH trở thành tai họa nghiêm trọng đối với toàn thế giới, và khi Hội nghị thượng đỉnh LHQ kinh qua “Công ước khung về BĐKH” (1992), trào lưu “Công trình xanh / Green Building” sinh ra (năm 1990 – 1995).

Công trình xanh (CTX) hay Tòa nhà xanh (Green Building) là những tòa nhà được xây dựng bảo tồn được môi trường vị trí và khu vực, vận hành ít tác động xấu đến hệ sinh thái đô thị, tiết giảm tiêu thụ năng lượng hóa thạch, nhờ vào đó giảm phát thải khí CO2, bảo tồn tài nguyên thiên nhiên, nhất là tài nguyên nước và tạo được hệ sinh thái sống quá tốt cho con người [1].

Năng lượng sử dụng trong công trình xây dựng gồm có từ việc sản xuất nguyên vật liệu, cấu kiện xây dựng, thiết kế và xây lắp xây dựng công trình, năng lượng vận hành công trình suốt trong quãng cuộc đời, kể cả việc bảo dưỡng, cải tạo, sửa chữa, tới khi hủy hoại công trình. Tất cả năng lượng này trong hầu hết các công trình xây dựng góp phần khoảng gần 1/2 lượng CO2 trong khí quyển.

Theo Hội đồng Công trình xanh Mỹ (USGBC), năng lượng sử dụng hàng năm của nhà ở và nhà thương mại là 39%, cộng thêm năng lượng tự bản thân khi chế tạo nguyên vật liệu xây dựng, giao vận chúng đến nơi xây dựng và lắp đặt vào công trình, thì tổng năng lượng tiêu thụ cho nhà cửa là 48%. Nghiên cứu tại Đài Loan cho hay mật độ phát thải CO2 gắn liền với công nghiệp xây dựng – kiến trúc là trên 40% ở các nước xứ lạnh. Trong khi ấy, Hội thảo về CTX châu Phi năm 2010 nhận định “hoạt động xây dựng công trình đã tiêu tốn 56% năng lượng của khu vực”. Như thế, có thể nói rằng rằng lĩnh vực xây dựng nói chung, và nhà cửa nói riêng, góp khoảng “1/2 lý do” gây ra Chuyển đổi khí hậu [1].

Bởi vậy, trong những Hệ thống nhận định CTX thế giới, mật độ điểm về giảm tiêu thụ năng lượng thường chiếm 1/3, thậm chí 50% (Hệ thống GM Singapore chiếm 61%). Điểm bảo vệ môi trường khoảng 20%, điểm của mỗi phần Hiệu quả nguồn nước, nguyên vật liệu và hệ sinh thái trong nhà khoảng 10%. Như thế CTX nhận định toàn diện chất lượng tòa nhà, trong đó phần hiệu quả năng lượng có mật độ điểm cao tối đa. CTX chưa nhận định về chất lượng kiến trúc (thẩm mỹ) công trình.

Lúc đầu, (những năm 1990- 2000) Công trình Xanh mới chỉ như 1 làn sóng (the Wave), đến năm 2006 đã thành cơn bão giông (the Storm) và đến 2009 – 2010 được xem là “Cuộc cách mạng Công trình xanh / The Green Building Revolution” [3]. Thời nay CTX đã thành một trào lưu (Green Building Movement) rộng khắp toàn thế giới, trong hơn 100 đất nước. Khẩu hiệu của CTX là “10 hơn một / 10 heads are better than one”, chỉ khi ấy, CTX sẽ làm thay đổi hệ sinh thái địa cầu để cuộc sống con người trên thế giới trở nên tốt đẹp hơn và chặn đứng BĐKH toàn thế giới.

Bởi vì lẽ đó, năm 2015, tại Hội nghị thượng đỉnh COP 21 Paris, các người lãnh đạo thế giới lần trước tiên công nhận: Công trình xanh là phương pháp hiệu quả chống lại BĐKH.

Tại Paris năm 2015, Hội đồng Công trình Xanh Thế giới (WorldGBC) đã phát động “Xây dựng xanh hơn / Better Build Green” và “Hành trình đến tòa nhà phát thải Zero / Journey to Net Zero Emission Buildings” – với mục đích “đảm bảo đến năm 2050 toàn bộ tòa nhà không phát thải khí nhà kính / to make sure that all buildings are net zero carbon by 2050”.

Ba mươi Hội đồng CTX các nước tham gia cam đoan chung: Đến năm 2020 sẽ có thêm một,25 tỷ m2 không gian công trình xanh trên thế giới, gấp gần hai lần S diện tích của Singapore và đào tạo 127.000 các chuyên gia CTX. Đến năm 2050 sẽ giảm 84 tỷ tấn CO2 cho 8,5 tỷ người trên thế giới và quyết tâm đáp ứng mục đích đầy tham vọng: Tất cả những tòa nhà là “không Carbon”.

Trào lưu CTX ở Việt Nam

Năm 2007, Hội đồng công trình xanh Việt Nam (VGBC) được thành lập, là 1 tổ chức phi chính phủ, chi nhánh của Hội đồng CTX California. Năm 2011, VGBC đề ra Hệ thống nhận định CTX trước tiên ở Việt Nam, gọi là Lotus.

Năm 2011, Hội Hệ sinh thái xây dựng Việt Nam (MTXDVN) thành lập “Hội đồng công trình xanh Việt Nam (GBCVietnam)”, được sự bảo trợ của Bộ Xây dựng. Hội MTXDVN đã được Bộ xây dựng giao xây dựng “Sách lược phát triển CTX ở Việt Nam năm 2020 – 2030” và xây dựng “Hệ thống tiêu chuẩn CTX Việt Nam”. Hai đề tài này đã hoàn tất, được Hội đồng khoa học nghiệm thu và chuyển giao cho Bộ Xây dựng năm 2014. Bộ Xây dựng cũng giao cho Hội nhận định thí điểm một công trình theo Hệ thống tiêu chuẩn này.

Bảng 1- Chính sách năng lượng Liên bang (Mỹ) năm 2005

Nhân kỷ niệm ngày Kiến trúc Việt Nam 27/4/2011, Hội KTS Việt Nam đã trở thành lập Hội đồng Kiến trúc xanh Việt Nam và ra “Tuyên ngôn Kiến trúc xanh Việt Nam” trong đó nêu rõ: “Kiến trúc xanh là hướng phát triển của Kiến trúc Việt Nam vì cuộc sống tốt đẹp của ngày hôm nay, không hao tổn đến cuộc sống mai sau và vì sự đi lên vĩnh cửu của quốc gia”. Sau thời điểm công bố các Tiêu chuẩn Kiến trúc Xanh Việt Nam, từ thời điểm năm 2012, cứ 2 năm một lần Hội KTS Việt Nam lại tuyển chọn và trao “Phần thưởng kiến trúc Xanh” cho những công trình xuất sắc đã xây dựng trên quốc gia ta. Nhờ sự cổ vũ này, các KTS Việt Nam dường như không ngừng kiếm tìm các phương pháp thiết kế kiến trúc theo “hướng xanh” và cho ra mắt nhiều công trình được nhận xét cao không những nội địa, mà toàn cầu [2].

Theo số liệu thống kê tại “Tuần lễ CTX Việt Nam năm 2020” đến quý 3 năm 2020, Việt Nam có 155 dự án đạt Chứng chỉ CTX của EDGE (41 dự án), LEED (83 dự án) và LOTUS (31 dự án) với tổng thể diện tích sàn là 3.325.000 mét vuông. Chú ý rằng con số này tính cả những công trình mới trên hồ sơ thiết kế, trong lúc chứng chỉ CTX chính thức chỉ tính các công trình đã đem vào sử dụng ít nhất hai năm [2].

155 dự án đạt Chứng chỉ CTX ở Việt Nam là con số quá “khiêm tốn”, chứng minh CTX ở Việt Nam mới đi những bước đầu tiên tiên, chưa có trào lưu hoạt động mạnh mẽ và chưa được sự chú ý đúng mức của xã hội, trong lúc trào lưu này đã sinh ra và hoạt động được 25 năm trên thế giới. Chú ý rằng Việt Nam là 1 trong ba đất nước chịu tác động nặng nề nhất của BĐKH.

Một vài kinh nghiệm phát triển CTX thế giới

A – Phần đa các nước hiện đại trên thế giới coi hoạt động CTX dựa trên nguyên tắc tự nguyện theo hướng thị trường, do các tổ chức phi chính phủ (các Hội đồng CTX) điều hành, nhận định và cấp chứng chỉ. Vai trò của Chính quyền các địa phương và Chính phủ trung ương là khuyến nghị, ủng hộ đặc biệt là ở giai đoạn phát triển trước tiên (1990 – 2005).

Theo kinh nghiệm phát triển CTX của Mỹ [3], sự ủng hộ của Chính phủ thể hiện:

(1) Nhà đầu tư được ưu tiên vay vốn. Giả dụ Bang Oregon (Mỹ) cho từng Công trình có S diện tích 10.000 mét vuông nhận chứng chỉ “Bạch kim” được vay 2$ / foot2.

(2) Giảm thuế: Vài giả dụ:

  • Bộ luật Nevada năm 2005 giảm thuế tới 50% trong 10 năm đối với công trình đạt chứng chỉ Bạc.
  • Chính sách năng lượng Liên bang (Mỹ) năm 2005 có khích lệ giảm thuế cho việc sử dụng điện và nước nóng mặt trời trong nhà ở (bảng 1).

(3) Tặng phần thưởng: Bản thân việc gắn Chứng chỉ CTX Bạch kim, Vàng, Bạc hay gắn “Sao xanh” đã là những giải thưởng giá trị, nâng cao độ tin cậy thương hiệu của những chủ đầu tư, Công ty xây dựng. Không chỉ có thế còn có những phần thưởng có giá trị, nhằm biểu dương các chủ đầu tư đã theo đuổi các công nghệ xanh quá tốt, khuyến nghị KTS thiết kế và xây dựng vươn tới giá trị cao tối đa. Giả dụ tại Mỹ:

  • Tổ chức Kresge của USGBC: Tháng 2/2006 đã trao 64 phần thưởng với số tiền $4.146.000 (TB ~ $70.000 / phần thưởng).
  • 42 tổ chức phi doanh thu đã trao tổng cộng tiền thưởng là $7.200.000 (TB ~ $171.000/ dự án).

Thời nay, khi trào lưu CTX đã phát triển mạnh mẽ, các Chủ đầu tư đã nhận được thức được vai trò và trách nhiệm với xã hội, với Địa cầu, các phần thưởng không còn nữa.

(4) Ưu tiên hoặc hỗ trợ cấp phép cho những dự án cam đoan xây dựng các công trình đạt chứng chỉ Vàng hay Bạch kim.

(5) Yêu sách của chính quyền. Giả dụ năm 2001, UB TP Seattle lần trước tiên ở Mỹ phát hành chỉ thị yêu cầu các công trình công cộng mới S diện tích trên 500 mét vuông phải đạt chứng chỉ CTX Bạc. Năm 2004, TP Vancouver, Colombia yêu cầu các tòa nhà công cộng mới phải đạt chứng chỉ Vàng. Thống đốc Bang California yêu cầu các công trình muốn được cấp phép xây dựng ở đây phải đạt từ chứng chỉ CTX bạc trở lên (trên bạc là vàng và bạch kim).

B – Không chỉ có thế, tại một vài nước đang phát triển trào lưu CTX lại do Chính phủ trực tiếp lãnh đạo, điều hành, như Đài Loan, Singapore, Trung quốc, …

Trào lưu CTX sẽ phát triển nhanh và mạnh mẽ hơn, khi nhà nước đặc biệt quan tâm và đem vào các Chương trình lớn, trọng điểm đất nước. Giả dụ tại Đài Loan: Năm 1999 trào lưu CTX bắt đầu khởi động, thì năm 2001 Chính phủ phê chuẩn “Chương trình tăng cường CTX” (GB Promotion Program). Năm 2002 CTX trở thành “Chính sách đất nước” (National Policy) và được xếp như là phần quan trọng của “Thử thách 2008 – Chương trình trọng đại phát triển đất nước” (Challanging 2008 – National Major Development Plan) [4]. Nhờ có 1 bộ máy điều hành tập trung, có năng lực do Bộ Nội vụ trực tiếp lãnh đạo, nên có thể sau 7 năm đã đạt được thành tựu khổng lồ và được nhận xét là 1 trong 3 nước có hoạt động CTX hàng đầu thế giới.

Tại Singapore năm 2005 – 2010 có Chương trình lớn đất nước về CTX (Green Building Master Plan) lần đầu tiên. Tiếp theo năm 2010 đã phát hành Chương trình CTX tiếp nối cho năm 2010 – 2030 với mục đích tới năm 2030 sẽ có 80% công trình đạt chứng chỉ CTX [5].

Thành phố công trình xanh (Cities for green buildings)

Chính quyền nhiều TP trên thế giới rất chú trọng vai trò trào lưu CTX trong xây dựng TP vững chắc của mình. Khi TP có rất nhiều tòa nhà xanh, điện năng tiêu thụ toàn TP sẽ giảm đáng kể, phát thải khí nhà kính sẽ giảm theo, môi trường đô thị, tài nguyên gồm có cả nguyên vật liệu và nước được bảo tồn, hệ sinh thái đô thị và hệ sinh thái sống trong nhà trở nên tốt hơn…

Từ đấy; có thêm khái niệm “TP CTX / Cities for green buildings”.

Công ty Tư vấn Quản lý Châu Á Solidiance [6] đã kiến nghị 4 lĩnh vực Tiêu chuẩn nhận định xếp hạng các TP thế giới về TP CTX, trong đó ba lĩnh vực tập trung vào tổng cộng công trình xanh, hiệu suất và sáng kiến, và một lĩnh vực tập trung vào các sáng kiến xanh của thành phố và hiệu suất của chúng. Đấy là:

(1) Phong cảnh công trình xanh toàn TP (City-wide Green Building Landscape), chiếm mật độ điểm 30%.

Danh mục này nhận định tổng cộng tòa nhà xanh ở mỗi TP (theo Số tòa nhà xanh và % các tòa nhà xanh so với tổng cộng tòa nhà), loại chứng chỉ được cấp cho những tòa nhà đó, và số lượng các chuyên gia về CTX đã được chứng nhận trong TP.

(2) Hiệu quả và hiệu suất của những tòa nhà xanh / Green Buildings efficiency and performance – mật độ điểm 25%.

Nhận định bằng phương pháp đo lượng phát thải CO2 và năng lượng sử dụng trong xây dựng của mỗi TP: Lượng khí thải CO2 và năng lượng tiêu thụ tổng số tính trên đầu người và tính theo GDP.

Sự tiêu thụ nước cũng đã được nhận xét nhưng không đủ dữ liệu đáng độ tin cậy để đem vào.

(3) Các chính sách và mục đích CTX / Green Building Policies and Targets – mật độ điểm 12,5%.

Danh mục này định rõ các quy chuẩn và mục đích xây dựng các tòa nhà xanh của TP và so sánh chúng với các TP toàn thế giới.

(4) Văn hoá và Hệ sinh thái TP Xanh / Green City Culture and Environment – mật độ điểm 32,5%.

Danh mục này suy xét các sáng kiến xanh cấp TP và nhận định hiệu quả của những sáng kiến đó, thể hiện được văn hóa vững chắc của thành phố. Một vài tiêu chuẩn cụ thể: – Kế hoạch Hành động về khí hậu, – Mục đích giảm phát thải CO2 (%), – Năng lượng tái hiện tiêu thụ của thành phố (%), – Chất thải tái chế của thành phố (%).

Năm 2016, Công ty Solidiance đã xếp hạng “10 TP số một thế giới về CTX” là:

Số % tòa nhà xanh trên tổng cộng tòa nhà (số liệu đến cuối năm 2014)
Source: Solidiance Research and Analysis based [6]

Đề nghị:

Trong lúc đợi chờ một trào lưu CTX phát triển mạnh mẽ trên cả nước, chúng ta hãy bắt đầu bằng Trào lưu xây dựng các TP CTX / Cities for green buildings.

Chính quyền TP khuyến nghị (thậm chí yêu sách bắt buộc) các nhà đầu tư phải xây dựng các tòa nhà đạt chứng chỉ CTX khi cấp phép xây dựng, yêu cầu cải tạo các tòa nhà đã xây dựng thành CTX. Như thế, mỗi TP cần phải có một Ban lãnh đạo trào lưu TP CTX với nhiệm vụ:

(1) Đề nghị các chủ trương, kế hoạch, sáng kiến khuyến nghị xây dựng CTX và mục đích sách lược xây dựng TP CTX trong 10 – 15 năm tới, đệ trình lãnh đạo TP suy xét, phê duyệt;
(2) Chọn lựa và xây dựng một Hệ thống tiêu chuẩn nhận định CTX thích hợp với điều kiện Việt Nam. Trong những tiêu chuẩn có thể bổ sung thêm (hoặc nhấn mạnh hơn) “Tiêu chuẩn không gian xanh” (đã nêu ở mục Đô thị xanh);
(3) Tổ chức nhận định và cấp chứng chỉ CTX.

Chúng tôi tin cẩn với cách làm này, sau 5 – 10 năm chúng ta sẽ có một vài TP CTX trên toàn quốc gia Việt Nam.

PGS.tiến sĩ Phạm Đức Nguyên
(Bài đăng trên TCKT số 10-2021)


Tài liệu tham khảo
1. Phạm Đức Nguyên. Phát triển kiến trúc vững chắc, kiến trúc xanh ở Việt Nam. NXB Tri thức. 2012.
2. Phạm Đức Nguyên. (1) Trào lưu CTX tạo thành & phát triển ra làm sao. (2) CTX và các khái niệm liên quan. TC Kiến trúc Việt Nam số 231/2020.
3. Jerry Yudelson. The Green Building Revolution. Island Press. 2008.
4. Architectur & Building Research Institute Ministry of Interior, Taiwan. Good to be Green. Green Building Promotion Policy in Taiwan. 2006.
5. BCA Green Mark, Singapore, Version 4.1.
6. Solidiance. The top 10 global cities for green buildings

Thêm nhiều thông tin hấp dẫn với BdsNhaDat.com.vn



T.H

Tham gia thảo luận

So Sánh BĐS

So sánh