Ảnh hưởng của quy hoạch không gian đến hiện tượng ngập nước ở TPHCM ✔

Ảnh hưởng của quy hoạch không gian đến hiện tượng ngập nước ở TPHCM ✔


Trong 1 thời gian rất dài nhiều thành phố trên thế giới lấy phương pháp công trình là chính trong lúc giải quyết vấn nạn ngập nước đô thị. Đấy là việc tôn cao cốt nền, làm đê bao bảo vệ thành phố, tạo lập hệ thống đê chắn nước biển, nước sông từ xa, hệ thống đê chắn và chia cắt sóng biển, đào sông nhân tạo thoát nước, xây dựng hệ thống cống hộp thoát nước, hệ thống các hầm chưa nước tạm, hệ thống hồ điều tiết, hệ thống máy bơm công suất lớn,… cho tới lúc này không có bất kỳ ai phủ nhận hiệu quả chống ngập của những phương pháp công trình và coi đấy là phương pháp quan trọng nhất; thế nhưng trong tầm 10 năm quay lại đây một vài thành phố nhận ra các phương pháp phi công trình cũng có vai trò rất quan trọng, nó không chỉ có hệ phương pháp bổ xung mà còn khiến cho cư dân thành thị bị ngập dễ dàng hơn trong việc thích nghi với bối cảnh và tiết giảm các rủi ro.

Tìm hiểu thêm:  

– Sài gòn rối loạn vì ngập nặng

– TP.HCM cần 500.000 tỷ VNĐ để chống ngập

– Sài Gòn sắp di dời hơn 2.000 hộ dân ven kênh, rạch trong năm 2016

b1201_tckt_01
TP HCM

Các tỉnh, thành phố có kinh nghiệm chống ngập như Rotterdam (Hà Lan), Quảng Đông (Trung Quốc) cũng đề cao các phương pháp phi công trình. Đấy là việc thay đổi ý kiến trong quy hoạch không gian, lối sống, điều tiết dân số, giảm tỷ lệ công trình xây dựng tại cộng đồng, giảm mức độ bê-tông hóa bề mặt, đẩy mạnh khả năng tham dự tự điều tiết của hệ thống sinh thái  tự nhiên, thích nghi để sống chung hòa bình và thân thiết với tự nhiên, giáo dục ý thức hệ sinh thái, nâng cao ý thức công dân, đẩy mạnh sự tham dự cộng đồng trong việc tiết giảm mức độ ngập nước nội thị cũng như tiết giảm tác hại của ngập nước gây ra cho quần chúng, … Thực tiễn cho thấy các công trình chống ngập rất qui mô nhưng nhanh chóng bị vô hiệu hóa nếu như không có sự hợp tác tốt từ công đồng cư dân. Trong những số các phương pháp phi công trình thì phương pháp thay đổi quan niệm quy hoạch không gian theo xu thế lợi dụng lợi thế tự nhiên để tăng độ thích nghi, giảm nhẹ đi rủi ro được xem là trước tiên và quan trọng nhất. Quan niệm và phương cách quy hoạch cổ truyền cho rằng quy hoạch và kiến trúc có quyền và có 1 sức mạnh lớn lao là xác lập ra một thế giới tự nhiên với sự hỗ trợ của khoa học modern hiện đại, công nghệ-kỹ thuật tiên tiến từ đấy có thể di chuyển và xắp xếp lại non sông, chính quan niệm này ít nhiều đã đóng góp thêm phần để cho thực trạng ngập nước trầm trọng hơn.

Quy hoạch không gian được hiểu là sự chọn lựa địa điểm, bố cục, xắp xếp và phân bổ khối lượng vật chất (nhà ở gia dụng, văn phòng, cơ sở dịch vụ, đường giao thông, thiết bị kỹ thuật,…) trên một măt phẳng bị giới hạn. Sự xắp xếp này còn có thể mang lại thuận tiện cho đời sống nhưng cũng có thể gây ra trở ngại, có rất nhiều thành phố do chọn lựa địa điểm định cư sai mà bị xóa khỏi do ảnh hưởng thiên nhiên, theo thống kê thì Trung Quốc đã có hơn 30 thành phố phải di chuyển địa điểm định cư, và cũng có khá nhiều thành phố do quy hoạch sai mà dẫn đến ngập lụt quanh năm như Metro Manila (Philippines). Trong bài viết này tác giả chỉ trình bày một vài trường hợp điển hình dẫn đến ngập lụt ở Thành Phố Hồ Chí Minh do quy hoạch chưa hợp lí, hoạt động quy hoạch này còn có các chiếc tồn tại từ rất lâu trong lịch sử, nhưng cũng có các chiếc mới có mai đây, những sai trái này sẽ trở thành bài học có lợi ích nếu biết rút kinh nghiệm cho việc sửa chữa và các phát triển tiếp nối.

Phát triển các KĐT mới làm mất túi chứa nước của thành phố

b1201_tckt_02  TP HCM có độ dốc từ Bắc xuống Nam, cao ở phía Bắc (Đông Bắc và Tây Bắc) và thấp dần xuống phía Nam, hướng thoát nước là Bắc -Tây bắc-Đông Bắc xuống Nam-Đông nam-Tây Nam. Ngay trong khi tạo thành một Sài Gòn modern hiện đại với quy hoạch kiểu châu Âu vào năm 1860, các nhà quy hoạch người Pháp như Coffyn, Pugnaire đã đề ra một nguyên tắc là không được phép phát triển xuống phía Nam bởi đấy là khu đất trũng(*). Khu vực phía nam (Q7, Nhà Bè) này như túi chứa nước cứu nguy cho toàn thành phố khi mưa to, triều cường và nước từ các sông Đồng Nai, Sài Gòn đổ vào về với lưu lượng lớn. Nếu xây nhà thì chỉ đơn giản là thấp tầng, tỷ lệ thưa và không thay đổi các kênh rạch, đầm hồ để bảo đảm an toàn cho thành phố Sài Gòn. Nhưng rất tiếc là Thành Phố Hồ Chí Minh đã phát triển quá mạnh mẽ và quá nhanh về phía Nam, bắt đầu là khu cư dân Phú Mỹ Hưng (khởi công 1996 với hơn 350 ha). Tuy vậy cần nhấn mạnh rằng bản thân Phú Mỹ Hưng không có lỗi, chính vì trong quy hoạch Phú Mỹ Hưng, công ty tư vấn kiến trúc SOM (Skidmore, Owings & Merrill) đã tính toán khá kỹ càng về cao trình, cốt nền, các hồ chứa nước được giữ lại và bù phần hồ và kênh rạch bị lấp cũng như khơi thông luồng thoát nước, nhưng sau thời điểm Phú Mỹ Hưng thành công thì vùng đất trũng đầm lầy này trở nên nổi danh và các nhà đầu tư đổ xô về xây dựng không có tội vạ để cho quy hoạch lúc đầu của SOM bị phá sản và tất cả vùng đất trũng này bị đổ đất lấp kín với cao trình cao hơn các khu vực khác của thành phố, các kênh rạch bị lấp hầu như tất cả. Hệ quả của việc phát triển sai hướng này là Thành Phố Hồ Chí Minh bị ngập nặng, lượng nước mưa và triều cường lúc trước được chứa ở túi nước phía Nam Sài Gòn thì nay bị đẩy sâu vào trong trong nước để cho hầu như tất cả thành phố bị ngập rộng và sâu, vào những khi mưa đạt vào khoảng 70 mm gặp thêm triều cường dâng cao là hết phương cứu chữa, nhiều nơi chưa khi nào bị ngập thì nay bị ngập nước với các cơn mưa chỉ ở mức trung bình như khu vực Ủy ban nhân dân thành thị, đường Lê Thánh Tôn, thậm chí Củ Chi, Thủ Đức là nơi cao nay cũng bị ngập nước. Hậu quả này không thể khắc phục được nữa và cũng chưa biết phải tính ra làm sao trong một dự báo là khoảng 62% S diện tích của Thành Phố Hồ Chí Minh sẽ nằm dưới mặt nước biển nếu mà nước biển dâng lên 0.7 mét trong hoàn cảnh chuyển đổi khí hậu toàn thế giới.

Để sửa chữa sai trái này thì khu vực phía Nam Sài Gòn cần tiến hành gấp gáp nguyên tắc “bù”, đồng nghĩa với phải bù lại phần đã bị lấp đi bằng các hồ điều tiết lớn và hệ thống kênh rạch mới nhằm khai thông dòng chảy từ trong nôi ô ra phía sông Sài Gòn, thế nhưng những cố gắng này nếu triển khai được cũng chỉ giảm nhẹ đi phần nào ngập lụt nội thị, nhưng quan trọng nhất vào bây giờ là lãnh đạo thành phố phải kiến quyết ngưng phát triển ngay các công trình lớn, các khu cư dân, các trục đường giao thông và các hoạt động làm bê-tông hóa bề mặt ngấm nước ở khu vực phía Nam, kể cả việc bê-tông hóa vùng Cần Giờ.

Quy hoạch và phát triển quá dày đặc các dãy nhà hình ống quá dày đặc mang lại hậu quả không có đường thoát nước

Nhà hình ống chạy dài theo dãy (dải) là sự phối hợp của hàng ngàn ngôi nhà hẹp bề ngang, thiên về chiều dài, bề ngang thường chỉ từ 3 mét đến 4 mét và dài từ 12 đến 18 mét và liền kế vách nhau nối dài nhiều kilomet. Loại nhà nay do người Hoa di cư mang lại Việt Nam từ các tỉnh Phía Nam sông Dương Tử của Trung Quốc như Quảng Châu, Quảng Đông, Quảng Tây, Phúc Kiến vào khoảng đầu TK 17. Thời nay nó được xem là một kiểu nhà điển hình của những thành phố lớn của Việt Nam như TP Hà Nội và Thành Phố Hồ Chí Minh. Đặc tính chung của chúng là các nhà dính liền nhau, chung vách tạo nên dãy, chạy cặp theo đường phố và trong những con hẻm, không cây cối, không vỉa hè (nếu có thì rất hẹp), không có dải phân cách mềm (cây cối, thảm cỏ) giữa đường đi và nhà ở, không có các vườn dạo, công viên mini đan xen giữa những dãy nhà cắt chia dãy nhà ra từng ô phố.

Trong một đô thị lớn thì hệ thống đường phố có 1 vai trò cực kì quan trọng trong việc phân phối luồng và dòng chảy tiêu thoát nước bề mặt, bây giờ đường phố được tưởng tượng ra tựa như những dòng kênh cạn với chiều cao và bề rộng hạn chế và bởi vậy mà bố cục hình thể trên các trục đường tác động 1 cách đáng nói tới vùng ngập lụt, những nhà cửa, ngoại hình khối của công trình, cách bố cục và cấu trúc nhà cửa cũng tựa như các tiểu công trình trên đường phố (kiosque, buồng điện thoại, máy rút tiền, nhà tắm, thùng rác, nhà chờ xe bus, ghế đá…) sẽ ảnh hưởng tới dòng thoát nhanh hay chậm của nước. Chính việc quy hoạch và xây dựng các dãy nhà loại nhà ống này đã làm gia tăng mức độ ngập nặng.

Điều ấy thể hiện: b1201_tckt_03

– Các dãy nhà liên tiếp cặp hai bên trục lộ chính là hai con đê chắn nước ở hai bên trục đại lộ, không có khe hở để phân lưu chia lượng nước ra, mà phần nhiều lượng nước bị lưu giữ lại ngay phía trên mặt đường biến các trục đại lộ thành các hồ chứa nước lâu ngày làm phá hỏng mặt đường. Các con đường như 3-2, Hùng Vương, chung quanh vòng quay Phú Lâm, khu vực ngã tư 4 xã là những chẳng hạn điển hình cho trường hợp này với hình ảnh các con đường bị ngập nước nối dài hàng tuần lễ, sau thời điểm nước rút để lại một mặt đường bị hư hỏng với hàng trăm ổ voi, ổ gà loang lổ, bong tróc, nứt nẻ.

– Một vài con hẻm nhỏ bắt từ trục đại lộ theo như hình xương cá trở thành ống dẫn nước sang hai chiều, nhưng rất tiếc phần kết của những con hẻm thường là 1 dãy nhà chắn ngang, hoặc là một số chung cư, một nhà xưởng ở trong phần cuối như 1 tấm lá chắn, cho nên nước có đổ dồn các con hẻm cũng không thoát được đi đâu, nước ngập bị tống ngược quay lại, những khi triều dâng cao thì nước từ ngoài sông đẩy ngược vào để cho nước trong những cống dồn ngược lên khu cư dân (ống cống càng lớn, lượng nước trào ngược càng nhiều) khiến các hẻm và trục đường trở thành những ống cống chứa nước lộ thiên. Thực trạng này còn có thể thấy ở các con đường trục như D2 – Văn Thánh, Ba Tháng Hai, Hùng Vương, Điện Biên Phủ, Nguyễn Hữu Cảnh, Lạc Long Quân, Nguyễn Văn Luông. Nếu nhìn 1 cách tổng thể thì những vùng ngập ở thành phố Hồ Chí Minh tương tự như các chiếc ống rộng lớn chứa nước không có đường thoát.

– Ở các thành phố dễ bị ngập nước thì những đường phố chính là các ống thoát nước, nhưng muốn nó trở thành ống thoát nước thì độ chênh của đầu và cuối con đường ít nhất phải từ 0,5- 0,7 mét, nếu như không có độ dốc từ cao xuống thấp thì chính các con đường này lại trở thành các ao hồ, ống chứa nước giữa ngay lòng thành phố, ở Hà nội cơn mưa lịch sử (ngày 2 và 3 tháng 11/2008) đã chứng tỏ khi ngập thì hàng chục tuyến đường trở thành ao hồ trong khoảng thời gian từ 7-10 ngày, thực trạng này được cải thiện là nhờ hệ thống bơm chứ không phải là tự thoát. Khi nghiên cứu hiện tượng này chúng tôi liên tưởng tới hệ thống cống hộp mới đang xây dựng ở thành phố Hồ Chí Minh, hệ thống cống khá lớn, nhưng cửa xả lại vẫn tại vị trí cũ, có nghĩa là ngang bằng hoặc dưới mặt nước sông, bởi vậy khả năng ngập sẽ trở nên trầm trọng hơn là điều có thật.

Thực trạng miêu tả trên đây là hình ảnh phổ biến ở tất cả những con đường đang bị và sẽ ảnh hưởng ngập ở Thành Phố Hồ Chí Minh. Việc sửa chữa, khắc phục nó ở 12 quận nội thành tưởng chừng như không còn có thời cơ nữa. Theo chúng tôi việc rút kinh nghiệm chỉ với thể triển khai được ở các KĐT hóa mới, đặc biệt là ở các quận Nhà Bè, Bình Tân, và các huyện Củ Chi, Hóc Môn, Thủ Đức, Cần Giờ, Bình Chánh.

Những kinh nghiệm này là:

• Hạn chế dần để đi tới triệt tiêu loại nhà ống có thiết kế và xây dựng mới nối dài cặp dọc hai bên các trục đường tạo thành các con đê chắn nước khi mưa lớn và triều dâng. Điều ấy có thể làm được ở các đô thị mới, chẳng hạn như đô thị Tây Bắc hay Đô thị cảng Hiệp Phước;

• Trong trường hợp không tránh khỏi thì dứt khoát phải tạo thành các dải phân cách mềm giữa đường và nhà. Đấy là một dải cây cối kèm với thảm cỏ thấm nước, mương thấm nước lưu;

• Cứ một vài ngôi nhà hình ống nên ngắt ra một khoảng trống để làm vườn hoa, công viên mini hoặc vườn dạo. Khoảng trống này không chỉ là công dụng tạo thành không gian vui chơi, thư giãn, tiếp cận xã hội mà còn là nơi giải quyết thực trạng ngập cục bộ, và tạo dòng tiêu thoát nước bề mặt. Ở một vài khu vực cư dân cũ không cần thiết phải đào đường đặt cống mà chỉ cần khai thông dòng nước chảy tràn trên mặt bằng phương pháp bỏ bớt những vật cản chặn dòng chảy là được, giả dụ như rộng mở hẻm, bỏ bớt 1 phần hay một số ngôi nhà thế nào cho dòng nước được khai thông từ bên phía trong ra tới kênh, rạch là được;

• Ở cuối các đường xương cá (đường nhánh) bắt từ đường trục  không được xây dựng các công trình làm cản dòng chảy (chung cư, bờ kè cao), cần duy trì hoặc tạo thành các hồ gom nước tạm tiếp đến dẫn ra sông, kênh rạch. Những hồ gom nước tạm này là nơi chứa nước từ trục đại lộ dồn về, kể cả khi cần sử dụng máy bơm nước thì chính các hồ gom này là điểm đặt máy bơm.

b1201_tckt_04

Xây dựng các công trình xây dựng có khối tích phần đế quá lớn và trọng lượng quá nặng để cho các vùng trũng bị ngập

Trận mưa lịch sử ở TP Hà Nội đầu tháng 11/2008 và thực tiễn ở Thành Phố Hồ Chí Minh không ít năm qua cho thấy ở những vùng trũng, đất chia lô yếu càng xây dựng nhiều công trình có khối tích và trọng lượng lớn thì khả năng ngập sâu và rộng càng nhiều. Chính các công trình này để cho thực trạng lún đất càng cao và tác động rộng. Các khu phố cũ được xây dựng từ thời Pháp thuộc không bị ngập mà các khu bị ngập nặng lại chính là khu cư dân mới với các công trình xây đắp quá vĩ đại như ở Mỹ Đình, Trung Hoà-Nhân Chính,… Ở những vùng đất trũng như ở Nhà Bè, Cần Giờ của Thành Phố Hồ Chí Minh cũng đang diễn ra một kịch bản tương đương khi mà các khu cư dân mới với qui mô lớn vẫn đang tấp cập mọc lên, thậm chí phường nào thì cũng có trụ sở UBND rất to lớn chiếm S diện tích bề mặt rộng. Chính vì như vậy mà một lời khuyên cần chú ý là ở các khu vực có nên đất yếu và trũng thì phương pháp bơm cát tôn cao nền, xây dựng móng nổi cho những công trình lớn, thậm chí cho cả một khu vực hàng chục ha là điều không khuyến nghị, vì như vậy bản thân nó không bị ngập nhưng nó sẽ làm tăng thêm mức ngập và chính nó sẽ ảnh hưởng vây hãm bởi thực trạng ngập mà nó tạo thành.

Nâng cao mặt đường các trục lộ làm gia tăng độ ngập b1201_tckt_05

Khi một khu cư dân bị ngập nước nặng do triều cường hay nước mưa thì hiện tượng phổ biến thường trông thấy là đường lộ lớn chạy qua khu cư dân này bị ngập sâu, hệ quả là tắc nghẽn giao thông, tai nạn thường xảy ra khi mặt đường nằm dưới mặt nước, mặt đường bị hỏng, xe cộ lưu thông bị ách tắc. Để khắc phục thực trạng này, Sở Giao thông công chánh sử dụng giải pháp quan thuộc đặc biệt là nâng cao mặt đường. Phương thức này được xem là phương pháp chủ yếu nhất (cũng có thể là đặc biệt nhất hiện tại) khi vận dụng ở các con đường như Phạm Thế Hiển, D2, Ung Văn Khiêm, Nguyễn Văn Luông, Hùng Vương, Kha Vạn Cân, Nguyễn Hữu Cảnh… Sau thời điểm nâng đường thì quả thực sự lưu thông trên trục đường được cải thiện tốt hơn, kể cả khi mưa to, ngập nặng. Nhưng điều mà các nhà công quyền dường như không tính được hậu quả xấu của chính nó là:

– Việc nâng mặt đường lộ mang lại hậu quả nặng nề hơn là khi các con đường này được nâng cao lên lập tức trở thành những con đê ngăn dòng chảy của nước, nhiều con đường nét cắt ngang dòng chảy làm đổi chiều dòng nước để cho nước thay cho thoát xuống cuối nguồn theo chiều từ cao xuống thấp, từ mặt đường xuống các kênh, mương rồi chảy dồn về ao, hồ lớn rồi chảy ra sông thì nay lại bị dẫn ngược quay lại hay rẽ ngang không thoát ra được dẫn đến thực trạng nước tù đọng gây ô nhiễm và độc hại hệ sinh thái. Một chẳng hạn điển hình là khu cư dân Ngô Tất Tố ngay cạnh bờ sông Sài Gòn, khu cư dân này năm nào thì cũng bị ngập vào mùa mưa và do triều cường, nhưng thời gian ngập không lâu và không sâu, chính vì nước rút ra sông Sài Gòn theo các con kênh, rạch và mạch nước ngầm, nhưng từ khi đường Nguyễn Hữu Cảnh được gia cố mặt nền nhiều lần để trở thành một đường lớn lớn thì nó cũng trở nên một con đê không lồ chặn tất cả những dòng chảy từ trong khu dân cưu thoát ra bờ sông, và như vậy hiểm họa đã giáng xuống cư dân khu vực này phải sống trong biển nước dài ngày mỗi lần ngập. Thực trạng tương đương cũng đang diễn ra ở nhiều khu vực cư dân trong thành phố như ở khu vực Văn Thánh, Hiệp Bình Chánh, Thanh Đa, ở những nơi này dân trở nên khốn khổ hơn sau thời điểm nâng cao các trục lộ.

– Việc nâng trục lộ thiếu tính toán đã mang lại cuộc chạy đua nâng cao độ nền đường lộ, hẻm, và nên nhà không có hồi chấm dứt. Một lô gích bình thường là khi mà các trục lộ lớn được nâng cao khiến các khu cư dân bị ngập, thì phương pháp kế tiếp là các hẻm phải được nâng lên bằng nguồn tiền “nhà nước và nhân dân cùng làm” hay huy động trong cộng đồng. Sau thời điểm đường lộ và hẻm nâng lên thì ngay lập tức tạo thành nên một hệ thống đê bao lớn nhỏ vây quanh các khu cư dân và hộ gia đình, và bây giờ các khuôn viên mỗi nhà trở thành một ô chứa nước, bởi vậy để khắc phục thực trạng này hàng loạt các hộ gia đình cần phải nâng mặt nền nhà, có những hộ gia đình phải nâng nền đến 3,4 lần để cho khoảng cách từ mặt đất đến trần của tầng trệt chưa đến hơn 1m. Một lô gích bình thường nữa là công trình nâng sau khi nào cũng cần cao hơn công trình trước kia để trừ hao phòng ngừa, vậy là 1 phản ứng ngược xảy ra là khi mặt nền nhà dân và hẻm nâng cao hơn thế thì nước lại đổ vào ra trục lộ, và cứ như vậy cuộc rượt đuổi nhau trong việc nâng nền vừa mệ mỏi vừa tốn kém không biết đến khi nào chấm hết.

Kết luận

Ngập nước đối với các thành phố sát biển và cửa sông là 1 trong những số các vấn đề nan giải mà các đô thị phải đối đầu. Trong hoàn cảnh chuyển đổi khí hậu thì phương pháp “nhị nguyên” vừa chống đỡ vừa thích nghi được xem là tối ưu hơn cả, đặc biệt là đối với đô thị lớn như TP HCM. Sự đồng ý này như 1 định mệnh lịch sử, chính vì không dễ gì di chuyển cả một thành phố với rất nhiều triệu dân qua một nơi khác. Chúng ta không hề hạ thấp vai trò cực kì quan trọng của những phương pháp công trình-kỹ thuật, những hoạt động ở cấp độ vĩ mô của chính phủ, của chính quyền thành phố, nhưng không coi đấy là phương pháp đặc biệt nhất như 1 bùa chú vạn năng. Những phương pháp phi công trình tuy không quyết định vận mệnh của một thành phố trước ngập nước, nhưng nó cũng góp 1 phần đáng kể vào việc cải thiện tình hình, trong những số ấy việc thay đổi nhận biết và hành động trong công tác quy hoạch theo kiểu cổ truyền sang quy hoạch thích nghi được xem là rất trong trọng trong hoàn cảnh hiện tại.

Bài viết là 1 phần bên trong kết quả nghiên cứu của đề tài trọng điểm Đại học Đất nước Thành Phố Hồ Chí Minh: “Nghiên cứu ảnh hưởng của những nhân tố dân số, tổ chức không gian sinh sống và ý thức cộng đồng đến hiện tượng ngập nước đô thị tại Thành Phố Hồ Chí Minh” mã số B2007-18b-02TĐ, năm 2008-2009.

PGS.tiến sĩ. Nguyễn Minh Hòa

Khoa Đô thị học và Quản lý đô thị, ĐH Khoa học xã hội và Nhân Văn, ĐH Đất nước TPHCM

(Bài đăng trong Tạp chí Quy Hoạch Đô Thị số 10)

CHÚ THÍCH:

(*) Xem: Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – “Ngập lụt và nhà ở tại các đô thị châu Á-Kinh nghiệm cho Thành Phố Hồ Chí Minh”. NXB Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, 2006, trang 113-120.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. Quy hoạch thủy lợi phục vụ việc kiếm tìm phương pháp chống ngập lụt cho TP. HCM. tháng 3-2008
2. Đồ án quy hoạch tổng tình hình chung đến năm 2010. Chính phủ phê duyệt ngày 16-01-1993 theo quyết định 20/TTg;
3. Đồ án tùy chỉnh quy hoạch chung thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020. Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại quyết định 123/1998/QĐ-TTg ngày 10/7/1998.
4. Nguyễn Minh Hòa. Vùng đô thị châu Á và TP. Hồ Chí Minh, NXB TP. Hồ Chí Minh, 2005.
5. Trung tâm nghiên cứu phát triển Đô thị và Cộng đồng, Nhiều tác giả, Những vấn đề của phát triển không gian đô thị, NXB Đại học đất nước TP. HCM, 2005.
6. Trung tâm nghiên cứu phát triển đô thị và Cộng đồng. Ngập lụt và nhà ở tại các đô thị Châu Á – Kinh nghiệm cho TP. Hồ Chí Minh. NXB TP. Hồ Chí Minh, 2006.
7. Viện quy hoạch xây dựng TP. Hồ Chí Minh. Thực trạng và dự báo phát triển dân số đến 2025. TP. HCM, 3-2005.
8. Viện kinh tế TP. Hồ Chí Minh. Hiện trạng ngập nước tại TP. Hồ Chí Minh: Lý do và Giải Pháp. Kỷ yếu hội thảo, 8-2006.
9. MARD (2003). Living with floods in the Mekong River Delta of Vietnam. Proceeding of the International Seminar on Flood Management, Hanoi. 17-21 Nov. 2003, pp85-92.
10. Government of Vietnam (2001). Second National Strategy and Action Plan for Disaster Mitigation and Management in Vietnam – 2001 to 2020. Government of Vietnam, Hanoi.
11. Wickramanayake, E. (1994): Flood mitigation problems in Vietnam. Disasters 18, 81-86.
12. UNEP-MRC, Mekong River Basin Diagnostic Study Final Report, MRC Secretariat, 1997 p. 5-36.

 

Thêm nhiều thông tin hấp dẫn với BdsNhaDat.com.vn



T.H

Tham gia thảo luận

So Sánh BĐS

So sánh