Di sản văn hóa trong quy hoạch phát triển đô thị (Trường hợp chuỗi đô thị ở Quảng Nam) ⭐

Di sản văn hóa trong quy hoạch phát triển đô thị  (Trường hợp chuỗi đô thị ở Quảng Nam) ⭐


Xây dựng triết lý về hệ sinh thái modern hiện đại

Đây sẽ là tiền đề khoa học cho những ý tưởng quy hoạch đô thị nói chung và chuỗi đô thị của Quảng Nam nói riêng.

Người ta quan niệm hệ sinh thái là “Một tập hợp các vật thể, bối cảnh/ điều kiện và sự tác động/ảnh hưởng bao phủ một đối tượng nào đấy” (The Random House College Dictionnary – USA). Và cũng có thể hiểu hệ sinh thái/hay môi trường tự nhiên là 1 hệ thống sinh thái mang tính chất tổng hợp và phong phú, gồm có nhiều nhân tố không giống nhau, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau để cộng sinh và phát triển. Con người/xã hội nhân loại (trong đó có đô thị – siêu đô thị – chuỗi đô thị) cũng chỉ đơn giản là một nhân tố trong cả một phức môi trường thật phong phú và rắc rối phức tạp mà thôi. Theo quan niệm Phương Đông, hệ sinh thái còn được rộng mở ra thành một đại dải ngân hà to lớn, bao la, vô cùng, vô tận mà trong lòng nó lại hàm chứa hằng hà, sa số các “tiểu dải ngân hà” khác.

Từ xa xưa, cha ông ta luôn nghĩ rằng: Nhân thân – Tiểu dải ngân hà (con người là 1 dải ngân hà nhỏ), mà theo phép biện chứng của F.Engels con người – tiểu dải ngân hà là 1 phần của tự nhiên – “sản phẩm của tự nhiên” đồng thời cũng chính là sản phẩm của chính bản thân mình/sản phẩm của văn hóa. Cố GS. Trần Quốc Vượng lại hiểu: “Con người: Một vật phẩm của tự nhiên, cũng nhỏ nhoi thôi trong đại dải ngân hà mênh mông”[1]. Cũng có thể hiểu con người vừa là sinh vật tự nhiên lại vừa là sinh vật xã hội. Và vì thế, con người – tiểu dải ngân hà bắt cần phải hòa đồng, hợp nhất với tư cách là hợp phần nhỏ nhoi của “đại dải ngân hà” mà gần đặc biệt là Trái đất của chúng ta, hệ sinh thái đô thị mà ta đang cư ngụ, căn nhà mà gia đình ta đang sinh sống hằng ngày. Suy rộng ra, Thiên – Địa – Nhân cũng thường xuyên phải hài hòa. Đấy là: Thế giới của tự nhiên, thế giới vật lý – môi trường tự nhiên (hữu cơ và vô cơ), thế giới của con người với lý trí, tình cảm, ý chí và những khát vọng cao đẹp vươn tới chân – thiện – mỹ và sau cuối là thế giới tâm linh của tín ngưỡng và tôn giáo – Một lĩnh vực cao hơn lý trí và tình cảm mà họ xem là một thực tại vô cực và tối hậu.

A1148-tckt-000
Thánh địa Mỹ Sơn

A1148-tckt-001Trong “Luận cương về Phơ Bách (Feuerbach)”, K. Mác cho rằng “Con người trong thực chất của chính nó là tổng hòa các mối liên hệ xã hội”. Các nhà khoa học kha khá đồng thuận về 1 cách định nghĩa khái niệm văn hóa mà theo đó “Văn hóa phản ánh mối liên hệ /hay thái độ ứng xử của con người với: Tự nhiên, xã hội, với chính mình và với thần linh” – Đấy là thái độ hòa đồng với tự nhiên, khoan dung với đồng loại, hội nhập với loài người (kính hiếu với bố mẹ, yêu mến vợ con, anh chị em, họ hàng, làng xóm, cộng đồng), biết kính và cả biết sợ thần linh. Còn với chính bản thân mình thì phải biết tự xấu hổ, có lòng tự trọng và lòng nhân ái, đồng thời có trách nhiệm cao đối với xã hội. Chính vì chỉ với ở “Con Người” viết hoa (theo quan niệm của Gorki – Đại văn hào Nga) mới dung hội đủ các nhân tố: Thể trạng, sinh lý, tâm lý và tâm linh. Tôi nghĩ rằng, cá nhân các KTS quy hoạch cần ghi nhớ thật rõ quan niệm nhân sinh này, vì nghề nghiệp của họ ảnh hưởng tới ích lợi của không ít loại người, cao tầng lớp người dân trong xã hội, đồng thời cũng ảnh hưởng rất rộng lớn tới hệ sinh thái sinh thái/“Bà mẹ thiên nhiên” của muôn loài sinh vật trên Trái đất này.

Chúng ta biết, điều kiện tự nhiên luật lệ phương thức tồn tại và phát triển của con người. Trái lại, con người căn cứ vào điều kiện tự nhiên, chọn lựa các nhân tố tự nhiên để sáng tạo lên của cải vật chất – cơ sở của những nền văn minh loài người, xác lập ra hệ sinh thái sống/không gian nhân tạo – Không gian sinh tồn cho chính bản thân mình và các thế hệ con cháu tiếp nối liên tiếp về mặt không gian – thời gian. Không gian kiến trúc mang tính nhân tạo mà điển hình là đô thị và chuỗi đô thị trong chừng mực nhất định, có sự tách biệt hay “độc lập kha khá” với thiên nhiên. Như thế, vì mục đích sinh tồn, con người đã cần phải ảnh hưởng (ở cả hai hướng tích cực và tiêu cực) tới môi trường tự nhiên bằng phương pháp khai thác tài nguyên từ hệ động vật, thực vật và khoáng sản (chất lỏng và hóa thạch).

Bãi biển Cù Lao Chàm
Bờ biển Cù Lao Chàm

Dạng hoạt động đặc điểm của con người nhằm kiến thiết hệ thống đô thị, chuỗi đô thị và đại đô thị rộng lớn (Mega City) là lý do gây ra những biến động lớn nhất trong môi trường tự nhiên. Xu thế chung là: Sự ảnh hưởng của con người tới môi trường tự nhiên càng ngày càng tăng thêm theo đà phát triển các hình thái kinh tế – xã hội và mức độ tập trung người dân trong những đô thị (cái gọi là cơn bão giông đô thị hóa lần 2). Ở giai đoạn hậu công nghiệp/hậu modern hiện đại thời nay có đến hơn 2/3 người dân trên thế giới tập trung vào sinh sống trong những đô thị lớn. Đây là xu hướng tất yếu phát triển nền văn minh loài người ở tầm cao hơn, đồng thời cũng chính là nguy cơ ẩn chứa đe dọa chính vì sự sống của chúng ta (ô nhiễm và độc hại hệ sinh thái, chuyển đổi khí hậu, lũ lụt, hạn hán, bệnh dịch…). Do đó, toàn bộ chúng ta cần ý nghĩ thấu đáo, suy nghĩ đến 1 cách cẩn trọng để chọn lựa cách thức/thái độ ứng xử đúng đắn nhất đối với thiên nhiên. Đặc biệt, trách nhiệm của những KTS quy hoạch với tư cách là những nhà tổng đạo diễn, người xác định phương hướng và kiến nghị ý tưởng quy hoạch đô thị. Đấy là sự thể hiện phẩm chất, bản lãnh và năng khiếu của một KTS quy hoạch. Toàn bộ chúng ta, đặc biệt là người KTS quy hoạch không khi nào được phép tự coi mình là chủ của tự nhiên, là kẻ chinh phục tự nhiên để dám tự do, tự tung, tự tác đề ra các ý tưởng quy hoạch dưới danh nghĩa phục vụ phát triển và lại tình cờ hủy hoại tự nhiên. Hãy biết sợ hãi trước khả năng sẽ ảnh hưởng “Bà mẹ thiên nhiên” trừng phạt mà vô phương cứu.

Hệ sinh thái địa – văn hóa và địa – lịch sử của Quảng Nam.

A1148-tckt-003Đây là cơ sở quan trọng cho việc quy hoạch phát triển chuỗi đô thị ở địa phương.

Ta hiểu, tự nhiên luật lệ văn hóa (các hoạt động có mục đích của con người) theo nghĩa không có tự nhiên sẽ chẳng có văn hóa. Có nghĩa là tự nhiên tạo lên con người, đến lượt mình, con người kinh qua hoạt động (sống và sản xuất) mà tạo lên văn hóa. Như thế, văn hóa là sản phẩm trực tiếp của con người, đồng thời lại là sản phẩm gián tiếp của tự nhiên. Hoạt động văn hóa của con người tạo lên các giá trị văn hóa, nhưng các giá trị văn hóa của con người lại cần phải có nhân tố tự nhiên làm chất liệu và hệ sinh thái để thể hiện. Chúng ta sẽ xuất phát từ ý kiến nhận biết này để suy xét hệ sinh thái Địa – văn hóa và lịch sử của tỉnh Quảng Nam.

Ngôi nhà cổ ở Hội An
Căn nhà cổ ở Hội An

Trước hết, Quảng Nam là 1 tỉnh thuộc vùng Duyên hải Nam Trung bộ của Việt Nam. Quảng Nam cũng có những đặc thù tiêu biểu, điển hình cho cả vùng địa – văn hóa miền Trung là: Có địa hình hẹp theo chiều Tây – Đông và nối dài suốt trục Bắc Nam, xương sống là dãy Trường Sơn hùng vĩ mà hiểm trở. Không chỉ có vậy còn có dải đồi ngay sát bên chân núi, có đoạn đồi đâm ngang ra biển Đông tạo nên các đèo và chân đèo là các dòng sông ngắn và dốc theo chiều Tây – Đông. Và theo đó, Cố GS. Trần Quốc Vượng đã khéo khái quát hóa điều kiện địa – văn hóa miền Trung trong đó có Quảng Nam theo mô hình giản lược: Núi – đồi – đèo – sông – biển và đan xen là: Cồn – Bàu – Đầm phá. Cố GS cho rằng: “Chính vùng đất Quảng với thế đất: núi đồi – đồng bằng dính liền nhau trải dài tới sát biển cùng hai dòng sông Vu Gia và Thu Bồn hợp lưu với nhau để bồi đắp nên vùng đất trù phú Quảng Nam, Đà Nẵng – Điện Bàn, Đại Lộc, Duy Xuyên”[2].

Nhân tố tự nhiên quan trọng luật lệ xác định phương hướng phát triển chuỗi đô thị tỉnh Quảng Nam chính là các dòng sông lớn (Vu Gia, Thu Bồn, sông Tam Kỳ…) mà hướng chảy chính là từ dãy núi Trường Sơn theo trục Tây – Đông đổ ra biển Đông. Không chỉ có thế phải nói tới đường bãi biển trải dài hơn 125 kilomet từ Điện Ngọc đến giáp vịnh Dung Quất hoang sơ với các bờ biển: Hà Uy (Điện Bàn), Cửa Đại (Hội An), Bình Minh (Thăng Bình), Tam Thanh (Tam Kỳ), Bãi Rạng (Núi Thành) và Cù Lao Chàm. Ta thấy địa hình rắc rối phức tạp thấp dần từ Tây sang Đông tạo lên vùng sinh thái phong phú: Núi cao phía Tây, Trung du ở giữa và đồng bằng sát biển Đông luôn là những nhân tố cần được nhìn nhận xét trong ý tưởng quy hoạch chuỗi đô thị Quảng Nam.

Cố GS. Trần Quốc Vượng đã có lần bình luận: “Hội An là 1 phức hệ sông chằng chịt ở vùng cửa biển và một Hội An là phức hệ cồn bàu sát biển”[3]. Có thể coi Hội An là trường hợp điển hình thể hiện 1 trong các đặc thù căn bản của hệ thống đô thị cổ Việt Nam với tư cách là 1 thành phố sông – Một đô thị sông nước với mạng lưới giao thông căn bản là đường thủy và phương tiện giao thông chính luôn là thuyền bè. Sông Thu Bồn và sông Cổ Cò cùng trục Tây – Đông (Thượng Chùa Cầu – Hạ Âm Bổn) là những trục chuẩn xác định nét quy hoạch căn bản của đô thị cổ Hội An.

Cố GS. Trần Quốc Vượng tâm sự, khi đi nghiên cứu điền dã ở Quảng Nam, ông đã nhận ra: “Đứng trên ngọn Bửu Sơn ở kinh đô Trà Kiệu (Simnapura) nhìn về phía Tây thấy ngọn núi Chúa – mà dưới chân núi Chúa là Thánh địa Mỹ Sơn, nhìn về phía Đông thấy Cù Lao Chàm, cả ba ngọn núi này hầu như phía trên cùng một đường thẳng”. Từ đấy, Cố GS đã phác ra sơ đồ quy hoạch một “vùng”, một “tiểu quốc” Chăm Pa theo một mô hình sơ lược nhưng cũng khá cụ thể và chuẩn xác: “Núi Chúa – Thánh địa Mỹ Sơn – Thành Trà Kiệu – Hội An cảng thị và Cù Lao Chàm”[4].

Điểm qua nét căn bản về hệ sinh thái sinh thái đất Quảng Nam để thấy từ xa xưa, người dân địa phương đã tận dụng, thích nghi và chọn lựa thái độ ứng xử với tự nhiên để xây dựng nơi cư ngụ và xác lập nên nét đặc thù văn hóa xứ Quảng. Vậy trong quy hoạch phát triển chuỗi đô thị ở Quảng Nam, chúng ta phải tiếp xúc từ hệ thống các môi trường liên quan mà hoàn toàn không được phép tách biệt thành một đơn vị cư ngụ/không gian đô thị độc lập.

Các nhà khảo cổ học cho rằng, dấu ấn vật chất xưa nhất Quảng Nam – Đà Nẵng và Nam Trung Bộ được biết đến thời nay là di chỉ khảo cổ Bàu Dũ ở miền Cồn Cát sát biển Tam Kỳ – Núi Thành với tư cách là 1 di sản hậu kỳ văn hóa Hòa Bình đầu đồ đá mới – hay di sản đá mới “hoàn toàn” rồi nhưng vẫn mang đậm cổ truyền văn hóa Hòa Bình. Kết quả nghiên cứu của những nhà khảo cổ học từ sau năm 1975 đến hiện nay cho thấy, có 1 hệ thống di sản mộ chum và dấu vết cư ngụ của người chủ nền văn hóa này (văn hóa Sa Huỳnh Tiền Giang) với diện phân bố rộng khắp, trong đó tập trung ở lưu vực các dòng sông lớn như: Thu Bồn, Vũ Giả, Tam Kỳ, Trường Giang…”[5]. Có thể coi đây là những dấu ấn vật chất xác nhận, đóng góp thêm phần tái tạo bức tranh sinh động về người dân, xã hội Quảng Nam trước thời kỳ văn hóa Chămpa.

Tiếp theo lớp văn hóa Sa Huỳnh là lớp văn hóa Chăm pa bao gồm 1 phức hệ nhiều tiểu quốc. Riêng ở Quảng Nam có Aramanti, Simnapura (Trà Kiệu) và Indrapura (Đông Dương). Cũng ở Quảng Nam, ta thấy sự hiện tồn của sáu tháp Chàm – di sản tiêu biểu của văn minh Chăm pa, bắt đầu từ tháp Bằng An (Điện Bàn), Trà Kiệu – Mỹ Sơn (Duy Xuyên), Đông Dương (Thăng Bình), Chiên Đàn (Phú Ninh), Khương Mỹ (Núi Thành).

Văn hóa phi vật thể ở Quảng Nam cũng mang những nét rất đặc sắc của những loại lễ hội: Miền núi, miền biển, lễ hội tôn giáo tín ngưỡng. Nổi trội nhất phải kể đến hai lễ hội lớn đặc biệt là: Lễ hội Bà Thu Bồn (12/12 âm lịch). Bà vốn dĩ là nữ thần Chăm sau người Việt tiếp nhận và tiếp tục thờ cúng với danh xưng Bô Bô Phu Nhân và lễ hội Nghinh Ông (thờ cúng cá voi) – nét văn hóa điển hình của người dân miền biển.

Làng bích họa đầu tiên tại Quảng Nam
Làng bích họa trước tiên tại Quảng Nam

Đất Quảng Nam là nơi quy tụ, giao lưu với không gian văn hóa Đại Việt ở phía Bắc và Phù Nam – Chân Lạp ở phía Nam, đồng thời cũng chính là vùng đất quy tụ, tiếp biến văn hóa Ấn Độ, Đông Nam Á và Trung Hoa miền Đông Á. Quy tụ và giao lưu văn hóa là tiền đề cho Quảng Nam nhận được hay di tích văn hóa thế giới là: Khu Tháp Chàm Mỹ Sơn và Đô thị cổ Hội An. Ta thấy rõ, khu di sản Tháp Chàm Mỹ Sơn là 1 quần thể kiến trúc độc đáo với những đền – tháp uy nghi, hoành tráng lưu dấu 1 thời huy hoàng của văn minh Chăm pa rạng rỡ. Năm 1999 khu di sản này đã được UNESCO vinh danh là di tích văn hóa thế giới theo tiêu chuẩn II với tư cách là 1 giả dụ điển hình về giao lưu, tiếp biến văn hóa và tiêu chuẩn III như là dẫn chứng đặc biệt nhất của nền văn minh châu Á đã mất tích. Hội An – Quảng Nam được mệnh danh là 1 “bảo tàng” sống về kiến trúc và lối sống đô thị lại được UNESCO đem vào Danh mục di tích văn hóa thế giới với hai tiêu chuẩn: là biểu hiện vật thể nổi trội của sự tích hợp các nền văn hóa qua các thời kỳ trong một thương cảng quốc tế và điển hình tiêu biểu về một cảng thị châu Á cổ truyền được bảo tồn 1 cách hoàn mỹ. Đô thị cổ Hội An có “nét đẹp không trùng lặp chứa đựng trong những phố phường lịch sử, sự đa dạng của những dáng thể kiến trúc, sự hoàn mỹ của nghệ thuật chạm khắc trong nội thất các di sản kiến trúc, tạo thành cho phố cổ Hội An những đặc điểm ấn tượng trong danh mục các di sản văn hóa của Việt Nam và cả kho tàng di tích văn hóa loài người”.

A1148-tckt-006

A1148-tckt-007Qua những content nội dung trình bày phía trên ta thấy, hệ sinh thái địa – văn hóa – lịch sử đã luật lệ tiến trình phát triển lịch sử và văn hóa trên đất Quảng Nam từ xa xưa. Mối liên hệ, ảnh hưởng qua lại giữa con người và thiên nhiên nơi đây còn để lại dấu ấn vật chất và tinh thần phong phú và đa dạng mà thay mặt đại diện tiêu biểu là hai khu di tích văn hóa thế giới: Khu Tháp Chàm Mỹ Sơn và Đô thị cổ Hội An. Và trách nhiệm của chúng ta thời nay là phải thiết lập được địa điểm của những di tích văn hóa quý giá do tiền nhân truyền lại, tạo điều kiện tối ưu cho chúng được tiếp nối trong tiến trình phát triển chuỗi đô thị Quảng Nam trong tương lai. Trong quy hoạch phát triển chuỗi đô thị ở Quảng Nam, các điều kiện tự nhiên và di tích văn hóa cần phải được nhận biết như là 1 thứ vốn quý giá: vốn tài nguyên thiên nhiên và “vốn văn hóa”. Cả “hai loại vốn không chỉ cần phải được bảo tồn mà còn cần phải được phát huy phục vụ nhu cầu phát triển chuỗi đô thị với tư cách là nguồn động lực của phát triển”.

Duy trì sự hài hòa và cân bằng động trong quan hệ giữa sinh thái – văn hóa và kinh tế làm tiền đề cho sự đi lên vững bền chuỗi đô thị ở Quảng Nam

Thái độ ứng xử có văn hóa với môi trường thiên nhiên/không gian sinh tồn – một bộ phận quan trọng cấu thành hệ sinh thái sống của con người là 1 thành tố trước tiên của văn hóa. Điều ấy cũng đồng nghĩa với: Trong quy hoạch phát triển chuỗi đô thị ở Quảng Nam, dù ở bất kì lĩnh vực hoạt động xã hội nào, chúng ta cũng nên chọn lựa lối sống thân thiết với môi trường thiên nhiên và lựa theo quy luật của tự nhiên. Buộc phải nhận biết rõ, đô thị nói chung (một “thân thể chân thật và rắc rối phức tạp”, có tính độc lập kha khá) và kiến trúc nói riêng chỉ đơn giản là một thành phần (lệ thuộc)/một nhân tố bổ sung vào khung cảnh thiên nhiên, khiến cho thiên nhiên hoàn chỉnh hơn, tươi đẹp, sexy nóng bỏng hơn với tư cách là hệ sinh thái sinh thái – nhân văn hoàn chỉnh. Trái lại, các nhân tố thiên nhiên (rừng núi, sông nước…), nhiều khi cả ánh sáng tự nhiên cũng cần phải được kéo xích lại gần nhau, trong chừng mực nào đấy, còn hòa nhập vào không gian kiến trúc (phần nhân tạo) để trở thành một phức thể/hợp thể thiên nhiên – kiến trúc thật hòa điệu – cái gọi là phong cảnh văn hóa đầy tính thẩm mỹ. Đây là thái độ ứng xử văn hóa cổ truyền của người Việt được vận dụng để xác lập không gian sinh tồn vĩ mô – đô thị và chuỗi đô thị. Điều ấy đúng như đánh giá của GS. Cao Xuân Huy (Tư tưởng phương Đông gợi những điểm nhìn tham chiếu) về tính cách con người Việt Nam: Đặc tính mềm mịn, nhịp nhàng, hoạt bát, lưu động như nước… khả năng thích ứng, đấy là tính ưu việt, bí kíp sinh tồn của dân tộc. Các KTS quy hoạch trong lúc thực hành chức phận nghề nghiệp của mình, buộc phải tuân thủ “Triết lý hệ sinh thái” phương Đông Thiên – Địa – Nhân là 1, “kiến trúc và con người” là 1. Trong trường hợp cụ thể ở hai khu di tích văn hóa thế giới: Khu Tháp Chàm Mỹ Sơn và đô thị cổ Hội An, chúng ta nên ý nghĩ để áp dụng sơ đồ giản lượng mà Cố GS. Trần Quốc Vượng đã gợi mở: Núi Chúa – Thánh địa Mỹ Sơn – Thành Trà Kiệu – Hội An cảng thị và Cù Lao Chàm. Đây là cách tiếp xúc tổng thể, liên vùng để ta xác xác định phương hướng phát triển chuỗi đô thị ở Quảng Nam làm thế nào cho chúng không phá vỡ mối quan hệ ràng buộc và ảnh hưởng qua lại giữa cái toàn thể và bộ phận cấu thành của môi trường đặc điểm ở miền Trung.

Chúng ta rất mong các KTS quy hoạch tôn trọng những ý kiến xác định phương hướng bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di sản lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh được thiết lập trong tổng quy hoạch do Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Sport thể thao và Du lịch) phê duyệt tại Quyết định số 1706/QĐ-BVHTT ngày 24/7/2001 với content nội dung cụ thể:

  • Việc bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di sản phải đảm bảo tính trung thực của lịch sử tạo thành di sản, không được làm xô lệch các giá trị và đặc thù vốn có của di sản phải không thay đổi vẹn không làm chuyển đổi những nhân tố cấu thành di sản, bảo đảm tính nguyên gốc của di sản.
  • Bảo tồn tôn tạo phải gắn liền với phát huy những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của di sản với sự đi lên kinh tế – xã hội của địa phương sự đi lên của những ngành hữu quan.
  • Xác lập sự hài hòa giữa phát triển kinh tế trong tiến trình đô thị hóa với việc bảo vệ di sản, chặn lại thực trạng xâm chiếm đất đai và xây dựng trái phép các công trình làm tác động tới phong cảnh thiên nhiên chung quanh di sản.

A1148-tckt-008Công ước Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới năm 1972 lại định rõ trách nhiệm quốc tế của những đất nước member thành viên là phải làm hết sức mình bảo tồn cho bằng được giá trị nổi trội toàn thế giới của những di tích thế giới mà quan trọng là đặc biệt là tính toàn vẹn và tính chân xác lịch sử (tính nguyên gốc) của những khu di tích thế giới.

Chúng ta biết, phát triển kinh tế (trong đó có phát triển đô thị) cũng như phát triển văn hóa đều phải gắn liền với đời sống xã hội và có mục đích chung là phục vụ ích lợi của con người. Kinh tế phát triển tạo cơ sở vật chất vững bền cho sáng tạo văn hóa (trường hợp cụ thể của chúng ta là cơ sở vật chất – kỹ thuật cho tu bổ, tôn tạo và phát huy giá trị di tích văn hóa). Và trái lại, cùng với văn hóa, việc bảo tồn và phát huy giá trị di tích văn hóa không được cản trở sự đi lên mà phải có trách nhiệm phục vụ các mục đích phát triển bằng phương pháp xác lập hệ sinh thái văn hóa – xã hội lành mạnh cho phát triển. Theo quan niệm bình thường, các khu di tích thế giới hàm chứa trong chúng 3 loại hệ sinh thái: Thiên nhiên, xã hội và văn hóa tâm linh. Trong giai đoạn phát triển công nghiệp hóa, đô thị hóa hiện tại, người ta còn đề ra một khái niệm mới là “hệ sinh thái đầu tư”. Và theo quan sát của chúng tôi thì vì mục đích phát triển kinh tế trước mắt, nhiều cấp chính quyền hình như có xu hướng chú trọng “hệ sinh thái đầu tư” hơn các loại hệ sinh thái khác. Đấy là cách tiếp xúc sai trái cần phải được sớm khắc phục.

Tôi rất tâm đắc với quan điểm phát biểu của ông Giovanni Boccardi – Giám đốc Ban châu Á – Thái Bình Dương thuộc Trung tâm Di sản văn hóa thế giới của UNESCO tại Hội thảo về phát triển vững bền trong Công ước Di sản văn hóa thế giới tổ chức tại Tràng An – Ninh Bình năm 2015: “Nếu tích hợp phát triển vững bền vào các quy trình để triển khai Công ước Di sản thế giới thì Công ước sẽ có sự liên kết hiệu quả hơn với cùng một trong hai mục đích tổng quan của UNESCO: phát triển vững bền và công bằng xã hội – góp phần cho phát triển vững bền và xóa đói giảm nghèo”[7]. Như thế có thể hiểu di tích thế giới cần phải được tiếp xúc theo tinh thần mới là: Không những nhằm bảo tồn 1 cách không thay đổi giá trị nổi trội toàn thế giới của di tích mà phải sáng tạo những cách thức quản lý và bảo tồn phù hợp để các giá trị văn hóa đặc sắc của loài người trở thành một bộ phận hữu cơ trong đời sống xã hội modern hiện đại, thật sự mang tới những ích lợi thiết thực cho phát triển vững bền của con người.

Tóm lại, triết lý quy hoạch phát triển chuỗi đô thị ở Quảng Nam cần phải được thực hiện là: Xác lập và duy trì sự hài hòa – cân bằng động giữa sinh thái – văn hóa và kinh tế. Đó cũng chính là triết lý quy hoạch cần phải được tôn trọng trong tiến trình phát triển hệ thống đô thị ở Việt Nam.

Tài liệu tham khảo:
1. Cố GS. Trần Quốc Vượng “Con người và hệ sinh thái – tiền đề triết học”. Xem Văn hóa Việt Nam. Những hướng tiếp xúc liên ngành. NXB Văn học TP Hà Nội, 2015. Tr.898.
2. Cố GS. Trần Quốc Vượng “Đất Quảng – Cái nhìn địa Văn hóa và Lịch sử”. Sách đã dẫn. Tr. 381.
3. Cố GS. Trần Quốc Vượng “Địa thế Địa – lịch sử và bản sắc Địa – văn hóa”. Sách đã dẫn. Tr. 397.
4. Cố GS. Trần Quốc Vượng “Miền Trung Việt Nam và văn hóa Chăm pa – một chiếc nhìn Địa – văn hóa”. Sách đã dẫn. Tr. 301.
5. “Hệ thống di sản văn hóa Sa Huỳnh ở Quảng Nam: Đặc thù và các mối liên hệ”. Tr.9. Thư viện số Trung tâm Thư viện Đại học Khoa học Huế.
6. Nguyễn Chí Trung “Di sản văn hóa thế giới Hội An và sức sexy nóng bỏng của chính nó”. Tạp chí Văn hóa Quảng Nam số 16 (8-9-2004).
7. “Phát triển vững bền trong Công ước Di sản thế giới”. Web Bộ VHTTDL. Chuyên trang Di sản thế giới.

Tham khảo thêm: Bảo tồn thích ứng – giải pháp tiếp xúc để bảo tồn và phát huy giá trị di tích làng xã cổ truyền

PGS. tiến sĩ Đặng Văn Bài
Phó Chủ tịch Hội Di sản Văn hóa Việt Nam

(Bài đăng trên TCKT số 10-2016)

Thêm nhiều thông tin hấp dẫn với BdsNhaDat.com.vn



T.H

Tham gia thảo luận

So Sánh BĐS

So sánh