Kiến trúc cảnh quan truyền thống ở Việt Nam: Tôn trọng tối đa, can thiệp tối thiểu vào hình thái tự nhiên ✔

Kiến trúc cảnh quan truyền thống ở Việt Nam: Tôn trọng tối đa, can thiệp tối thiểu vào hình thái tự nhiên ✔


Ở Việt Nam, từ ngàn đời nay thiên nhiên trở thành cái nền cho kiến trúc, kiến trúc giống như những bông hoa tô điểm cho thiên nhiên đã trở thành một cổ truyền tạo dựng cảnh quan kiến trúc từ thủa ông cha. “Thiên nhiên khi nào cũng đẹp mà kiến trúc thì không phải khi nào cũng thế. Thiên nhiên luôn chứa đựng trong nó sự phong phú đa dạng và khả năng sáng tạo đến vô cùng, vô tận… Trong lúc tất cả các gì Kiến trúc làm được vẫn chỉ đơn giản là những căn nhà vuông đét, ngay ngắn… Ngay cả lăng tẩm, đền đài kỳ vĩ lớn lao và rắc rối phức tạp nhất cũng không thể sánh được với vẻ tinh xảo phong phú và kỳ bí mà thiên nhiên ban tặng. Ý thức được điều đó, con người đã sớm biết cách sử dụng thiên nhiên, lợi dụng thiên nhiên để tô điểm thêm vào cho các sáng tạo nghệ thuật của mình’’[1].

Điều đó có thể thấy rõ ràng nhất ở những cung điện, lăng tẩm ở Huế, hay còn còn sót lại ở bộ mặt nhiều TP khác. Ở Huế, sự khôn khéo thông minh về tạo dựng phong cảnh của ông cha đã hình thành vẻ đẹp hữu tình, lãng du với “Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo’’, mỗi góc phố, mỗi cung đường đều chứa đầy sức thu hút. 1 phần quan trọng chính là nhờ cái nhân văn, nhân bản thâm thúy của tâm hồn Việt. Có thể thấy ở lăng Tự Đức là 1 mô thức hoàn mỹ, một bài thơ về các cách làm Kiến trúc phong cảnh cổ truyền. Đến cả người Pháp khi chọn lựa phương án Kiến trúc cầu Tràng Tiền, cũng đã rất ấn tượng với cảnh sắc nơi đây, thế nên mô hình mà người ta chọn cho tới thời nay, sau hàng trăm năm cũng không hề phai lạc về tính liên kết hữu cơ đầy chất thơ với phong cảnh. “Những ngôi đình, ngôi chùa của miền Bắc cũng như vậy, cứ giống như những cây cổ thụ mọc lên từ sườn núi, mé sông. Nếu như không có cái thế đó, thì họ cũng biết tạo lên một mặt nước phía đằng trước, một bờ đất, một rặng tre phía sau, một cây cổ thụ trùm bóng mát lên khoảnh sân góc mái. Kiến trúc như 1 phần của thiên nhiên’’[2]

Tổ chức phong cảnh ở hệ sinh thái ở dân gian – Tôn trọng tuyệt đối địa hình và phong cảnh thiên nhiên

Loại hình này chiếm một mật độ áp đảo trong kiến trúc cổ truyền của Việt Nam. Đối với công trình do người Việt tạo dựng thì điều đó hầu như là tâm niệm đương nhiên. Có thể thấy điều đó biểu hiện rất rõ ở tổ chức không gian mọi làng quê nước mình từ Bắc chí Nam. Ở miền núi phía Bắc, đấy là những bản làng cheo leo trên sườn núi hay trong thung lũng, có sự liên kết vô cùng hài hoà với cảnh sắc địa phương. Tưởng chừng như mọi thung đồi, khe suối ở đây đều đựơc tôn trọng, giữ gìn tuyệt đối. Những căn nhà ở của đồng bào chỉ giống như những chấm phá điểm tô thêm vào cho khung cảnh lãng mạn, với hình hài thật tao nhã, nguyên vật liệu bản địa liên kết. Vào trong từng khuôn viên, từ thực thể căn nhà, đến sân, vườn, ao, toàn bộ đều khởi nguồn cải dựng khôn khéo từ thiên nhiên. Nhất là bản thân những khuôn viên đó như là sự kết phát tự nhiên của thiên nhiên. Một điều thú vị nữa là, sự kết nối thành chuỗi, khóm của nhà ở và các công trình cộng đồng thường rất rõ ràng ở mỗi làng xã. Thêm vào đó, những con đường quanh co uốn lượn mòn theo năm tháng ăn khớp với tầng bậc địa hình, thực sự đã góp nên những hoạ đồ thiên nhiên gợi cảm.

Phong cảnh quanh nhà

Với khu vực đồng bằng miền Bắc, những ý niệm đó của ông cha cũng không hề bị mai một. Có ai đó đã ở, đã đến những làng quê ven sườn đồi, phía đằng trước là cánh đồng mênh mông trồng lúa ngô khoai, hay có thể cả thôn làng nằm giữa vùng đồng bằng bát ngát phẳng. Những căn nhà, khuôn viên ở đấy giống như những bài thơ, tô điểm chung cho khung cảnh yên bình no ấm. Những rặng tre, bờ xoan, vườn mít chuối, hàng cau… là sự bày sắp phong cảnh thật tự nhiên của người “KTS – gia chủ”, để lại vô số những điều kỳ thú sâu xa về bản sắc. Khung cảnh làng, liên làng với cây đa, giếng nước, sân đình, cổng làng, hoa gạo thắm đỏ… hoà quyện với nhau thành những bức tranh tuyệt sắc, đến mức không thể phân rõ đâu là thiên tạo, đâu là nhân tạo. Bên cạnh đó còn có những loại công trình công cộng rất độc đáo, sự góp phần hình hài và cách tổ chức cảnh quan không gian của chính nó khiến cho mỗi ngôi làng không còn đơn điệu, mà hết sức đa dạng hài hoà – Đấy là đình, chùa, miếu mạo. Trong kiến trúc cổ truyền, những dạng công trình này được xây dựng thường đồ sộ hơn nhà ở, và khi nào cũng được chọn trên miếng đất trống, có độ cao đã định sẵn, tôn trọng hoàn toàn, không thay đổi những gì tự nhiên đã có ở chung quanh. Mạng lưới cơ sở giao thông ở đây cũng phát triển tự nhiên, mềm mịn theo địa hình, phối hợp cùng khuôn viên công trình tôn tạo thiên nhiên 1 cách tối đa.

Ở miền Nam, đi suốt một dải từ Đà Nẵng đến Mũi Cà Mau chúng ta đều gặp gần như tất cả làng quê có tâm niệm xác lập phong cảnh theo hướng như thế. Đương nhiên, cái tài tình, thông tỏ của người xưa là ở chỗ, mỗi vùng miền, làng quê đều mang những sắc thái riêng, thích hợp với khí hậu thổ nhưỡng. Vùng Miền Trung và Nam Trung bộ, những ngôi làng được xác lập rất khoáng đạt, nhiều cây cối, hình thái khuôn viên không có giới hạn rõ nét, căn nhà đơn giản hơn phía Bắc, làm từ nguyên vật liệu tự nhiên là chính. Cây cối cũng bổ ích hơn để hái hoa, ăn quả và thường không cao lớn như phía Bắc. Toàn bộ tạo thành khung cảnh dung hợp với lối sống.

Ở miền Tây Nam bộ với đặc thù là vùng sông nước, các thôn ấp thường ít nóc nhà hơn. Khung cảnh ở vùng này thường được xác lập rất phóng khoáng, không chia phôi giới hạn, như cách sống hào hiệp nắng gió, tự do của đồng bào. Khuôn viên mỗi căn nhà hoà nhập hoàn toàn vào không gian chung, nhiều lúc đến không định rõ được đâu là giới hạn. Kiến trúc phong cảnh ở những vùng này quen thuộc, xen lẫn với sông nước bao phủ, mênh mang, chứ không tĩnh tại bến nước sân đình như phía Bắc. Những khuôn làng, chợ nổi dập đềnh trên sông, cùng cánh lục bình tao nên một phong cảnh tự nhiên, đầy bản sắc thu hút.

Vùng Tây nguyên xanh, giữa khung cảnh đại ngàn xanh mướt, những buôn làng cũng thật đặc sắc với những phong cảnh liên kết với tự nhiên đằm thắm. Những căn nhà dài như nét mày kẻ ngang đồi, những căn nhà rông cao vút như nhấn mạnh về sức sống của con người giữa thiên nhiên hùng vĩ. Lạ thay, toàn bộ đều hoà quyện với cảnh sắc thiên nhiên thật êm ái, nhịp nhàng. Không có thấy gì sự phá phách hay “nhảy dù’’ thô bạo ở đây. Những nghệ sĩ sáng tạo phong cảnh dân gian Gia rai, Ba na, Ê đê, Mnông, Cơ ho, Xơ đăng… đã trở thành công trong việc tôn trọng tối đa thiên nhiên, phối hợp với sáng tạo linh động, vận ứng, thích hợp với khung cảnh đại ngàn. Cách tổ chức khuôn viên của buôn làng cũng mang rất là nhiều bản sắc riêng, nhưng hoàn toàn không làm suy suyển khung cảnh thiên nhiên nơi họ ngụ cư. Đặc biệt, Tây nguyên còn có dạng phong cảnh cho tất cả những người đã khuất là nhà mồ, cũng khá nghệ thuật và ấn tượng. Những loại công trình này, không hề làm những khu rừng chứa đựng nó bị mai một chất nguyên bản. Rẫy của người Tây nguyên cũng góp phần tích cực trong xác lập phong cảnh cho vùng “đồng bằng’’ trên cao này.

Sự hòa quyện phong cảnh tự nhiên với công trình xây dựng

Tổ chức phong cảnh cổ truyền tại các tổ hợp công cộng, thành quách dinh thự, lăng tẩm

Đối với các công trình, cụm công trình công cộng cổ truyền, cảnh quan kiến trúc tuy gần như tất cả có thiết kế xây dựng, với phương pháp nhân tạo phối hợp, có khi chiếm mật độ nhiều hơn tự nhiên, quy mô thường khá lớn. Thế nhưng, quan niệm xác lập cũng tuân thủ nguyên tắc giữ lại tối đa khung cảnh thiên nhiên, nhất là cây cối và địa hình. Có thể thấy điều đó rõ ở những cụm chùa, đền riêng biệt ở mọi vùng miền cả nước. Ở đấy, những công trình, từ ngôi đình đền miếu, đến các loại lăng, tháp… được quy hoạch khôn khéo trên những vùng đất trống, ít cây xanh, địa hình thuận thế, dựa trên một sự thoả hiệp linh động giữa phong thuỷ với điều kiện thực tiễn. Đồng thời, phần phong cảnh ngoài công trình nhắm tới khai thác tối đa thực trạng có tôn tạo, thích hợp ý đồ KTS thiết kế và phong tục tín ngưỡng, như hồ thì nắn chỉnh lại hồ sẵn có, núi thì gọt dũa thêm núi hiện hữu… Vì thế các công trình này khi xây dựng xong, vẫn mang được cảm nhận truyền cảm thân thuộc, gần như không bị xung đột cảnh quan tự nhiên.

Với dạng công trình cung điện, dinh thự, lăng tẩm, đây là dòng công trình thường có quy mô đồ sộ nhất trong những công trình cổ truyền. Việc xác lập phong cảnh ở đấy gắn với xây dựng các tổ hợp công trình. Thoạt tiên, việc nghiên cứu kỹ địa hình địa mạo để không thay đổi cấu trúc tự nhiên luôn được . Đây chính là thế khu đất, nói theo một cách của thầy địa lý. Trong tiến trình xây dựng, có thể toàn khu đều bị đụng chạm vào, tạm chuyển đổi hình thái, nhưng khi hoàn tất, việc trả lại nguyên bản gần như luôn được và triển khai. Như lăng tẩm ở kinh đô Huế, hay dinh vua Mèo Vương Chí Sình ở Quản Bạ Hà Giang là những giả dụ. Đương nhiên, việc chuyển đổi 1 phần khung cảnh ở các loại công trình này là điều không tránh khỏi, nhưng phong cảnh được giữ lai chuẩn xác hồn cốt căn bản, không hề thay đổi. Việc bổ sung này đều mang tính tôn vinh chứ không phải bác bỏ, như hàng sa mu trồng ở Dinh vua Mèo là mang từ nơi khác đến, nhưng khiến cho phong cảnh toàn khu có đặt dinh thự trở nên hùng vĩ, đẹp tươi hơn; hay bố cục hoàn hảo của lăng tẩm Huế mỗi địa điểm một khác cho thấy rõ điều này. Người xa xưa còn có 1 phương pháp “linh động phong cảnh” rất hấp dẫn nữa là sắp xếp cây trong chậu, hồ cá nhân tạo, non bộ tô dựng.. cách làm này hoàn toàn không có ở những phong cảnh lừng danh châu Âu.

Quy hoạch đô thị tôn trọng tối đa khung cảnh tự nhiên
Đô thị bản làng miền núi – tạo thành tựa vào địa hình tự nhiên

Xác lập phong cảnh đô thị cổ truyền

Đô thị Việt Nam có thể định rõ là đã tạo nên đã khá lâu, “Nhưng bắt đầu được định danh là TP thì từ thời Pháp thuộc thế kỷ 19, với số lượng 21. Có 3 TP cấp một là thành phố Hà Nội, Sài Gòn và Hải Phòng; 3 TP cấp 2 là Chợ Lớn, Đà Nẵng, Nam Định; 16 TP cấp 3 là Đà Lạt, Thái Nguyên, Hải Dương, Vinh-Bến Thuỷ, Bạc Liêu, Cần Thơ, Mỹ Tho, Rạch GIá, Thái Bình, Thanh Hoá, Huế, Quy Nhơn, Phan Thiết, cập Xanh Giác (nay là Vũng Tàu), Long Xuyên, Bắc Ninh, Đồng Hới”[3]. Đến thời kỳ cách mạng, năm 70 của thế kỷ trước, nước mình vẫn mới có 3 TP trực thuộc trung ương, 11 TP trực thuộc tỉnh, chỉ còn trăm thị trấn thị tứ – “Nhưng đến tháng 7/2021, số lượng đô thị Việt Nam đã đạt tới mức gần 850. Với 2 đô thị loại đặc biệt, 22 đô thị loại I, 32 đô thị loại II, 48 đô thị loại III, 88 đô thị loại IV, gần 700 đô thị loại V. Với mật độ đô thị hoá khoảng 40%. Góp phần GDP của khu vực đô thị đến hơn 70%”[4]. Người dân tại các đô thị thực tiễn đã chiếm hơn 50 % số dân cả đất nước, kể cả định cư và vãng lai. Tốc đô đô thị hoá nhanh và mạnh đang diễn ra theo từng năm. Như thế, bản chất việc quy hoạch xây dựng đô thị, trong đó được thiết kế xây dựng cảnh quan kiến trúc, đóng vai trò quyết định sự thành bại của phát triển về mặt đầu tư xây dựng của một đất nước, đồng thời cũng đóng vai trò quyết định cho hội nhập toàn thế giới. Khi thiết kế những không gian quy hoạch xây dựng đô thị cổ truyền, người xưa từ khởi phát đã tựa vào sự hội quy tụ lý cao tối đa của bộ mặt và điều kiện tự nhiên từng vùng, miền để chọn lựa. thành phố Hà Nội, nơi thế núi thế sông sáng láng, toàn mỹ đã được chọn làm kinh đô trong gần như tất cả chiều dài lịch sử. Sài Gòn – TPHCM mới có lịch sử đô thị hơn 300 năm, nhưng bản chất đã thành nơi quần hội đông đúc và nhộn nhịp của miền Nam hàng trăm năm trước đây. Hải Phòng, cửa ngõ giao thương quốc tế quan trọng cũng đã được chọn lựa ngay từ đầu với tầm nhìn như thế.

Kiến trúc phong cảnh ở các đô thị này, đều được xác lập bắt đầu từ kinh nghiệm truyền đời của người xưa về các cách chọn địa điểm, xây dựng trên cơ sở tôn trọng phong thuỷ, địa hình, địa mạo, ít can thiệp nhất vào khung cảnh tự nhiên. Việc chọn lựa từng khu đất thích hợp với công năng tương ứng nội đô cũng thể hiện một tầm nhìn thông tỏ uyên bác của ông cha. Những sự chọn lựa đó, cho tới giờ vẫn nguyên giá trị về sự thích dụng, tươi trẻ và thích hợp phong cảnh.

Trong các “tiểu khu vực’’, việc sắp xếp và phối kết phong cảnh lại thể hiện càng rõ sự khôn khéo. Chọn lựa và xây dựng các cửa ô thành phố Hà Nội biểu hiện rõ cho các ý tưởng này. Hay trung tâm Sài gòn – TPHCM ví dụ, càng phát triển càng thấy sự chọn lựa này thật xác đáng. Nhân đây cũng xin nói thêm, TPHCM 1 thời kì vọng Thủ Thiêm là trung tâm mới, nhưng sau thời điểm nghiên cứu sâu kỹ những lý lẽ ông cha để lại, thời xác lập và phát triển TP, Thủ Thiêm trở về đúng địa điểm là trung tâm phụ trợ cho cực chính bên này sông Sài Gòn. Chính những thâm thúy về cảnh quan kiến trúc, liên kết hoà quyện và tôn trọng thiên nhiên đã tạo những nét đặc thù cho mỗi đô thị : thành phố Hà Nội là TP của các mặt hồ long lanh; Sài Gòn – TPHCM là TP của sông nước kênh rạch; Hải Phòng là TP của cảng sông, cảng biển; Đà Lạt là TP của ngàn thông, ngàn hoa…

Khi mỗi đô thị đã tạo nên hàng triệu triệu công trình tích đọng lại theo thời gian, đang và sẽ có hàng chục ngàn vạn công trình mới thay thế cái cũ – Nếu như không có 1 tinh thần cốt lõi về ý niệm ứng dụng phong cảnh làm chỗ dựa, đô thị sẽ trở thành một mớ hỗn độn không bản sắc, điều đó chắc chắn có thể xảy ra cho mọi TP lớn nhỏ. Nếu cứ vậy, tiếp nối chúng ta còn điều gì của hồn cốt linh, bản sắc riêng? – “Kiến trúc phong cảnh là cái gạch nối giữa các gì do con người tạo lên với những chiếc do thiên nhiên tạo lên’’. Mỗi đô thị với tinh thần nơi chốn của mình, cần xác lập cái riêng trên tinh thần tôn trọng giữ gìn thiên nhiên vùng đất. “Cái riêng đó xuất phát từ cổ truyền, bản sắc vốn có, mà ta phải biết phát huy bằng phương pháp modern hiện đại hoá nó lên và cái riêng đó cũng có thể có từ sự tìm tòi những chiếc mới mẻ, tạo lên từ tâm hồn, tính cách người Việt Nam”[5].

Ở các đô thị bé hơn, việc tận dụng và khai thác tối đa phong cảnh thiên nhiên, đã được định rõ là 1 nhân tố cơ bản để phát triển vững chắc. Những đô thị xuất phát từ địa hình đồi núi như vùng Tây Bắc, Việt Bắc, thượng nguồn miền Trung, vùng Tây Nguyên, việc tận dụng địa hình tự nhiên đồi núi để xác lập những hình thái phong cảnh đặc sắc đã được triển khai ngay từ khi đô thị tạo thành. Một vài chương trình “sắp xếp lại non sông’’ được chặn đứng kịp thời. Kiến trúc cảnh quan ở các đô thị này từ cổ truyền đến hiện nay cơ bản là giữ được sự đặc sắc nguồn cội. Đương nhiên ở đấy, dù đều xuất phát từ đồi núi, sông suối, chênh cao… nhưng không đô thị nào bị trùng lặp phong cảnh với đô thị khác. Chỉ tiếc là kiến trúc công trình tại các đô thị này hiện tại đều bị xoá nhoà tính địa phương khá rõ. Vì thế, hình hài không gian cảnh quan kiến trúc bị đồng hoá lẫn nhau. Đối với vùng miền Tây Nam Bộ, phong cảnh đô thị gắn chặt với sông nước, cũng được người xưa luôn xem như là thế mạnh để bảo tồn, gìn giữ hướng phát triển đã có từ ngàn đời. Vấn đề sinh thái phong phú và thú vị cũng được tiếp biến trên cơ sở nghiên cứu cẩn trọng sâu kỹ. Thực sự là, “Thiết kế đô thị có thể định nghĩa như là 1 qúa trình xác lập không gian đô thị, một nghệ thuật tạo dựng các nơi chốn không giống nhau trong TP… Tập trung vào việc thể hiện các vị trí quy hoạch về mặt hình thể. Vóc dáng của những công trình, hay quần thể các công trình cũng như không gian và phong cảnh chung quanh’’[6]. Cổ truyền Việt Nam về tạo thành và phát triển, xây dựng đô thị có thể đi tới đúc kết: “Xây dựng đô thị dù lớn, dù nhỏ không đồng nghĩa với phá hủy, cải tạo, ép buộc thiên nhiên – Đô thị và thiên nhiên phải luôn cùng song song tồn tại và bổ sung cho nhau vì mục tiêu phục vụ cực tốt con người’’[7].

Những nguyên tắc có thể rút ra từ cách xác lập Kiến trúc phong cảnh cổ truyền

1. Đối với các vùng quê:

  • Chọn lựa kỹ càng địa điểm xây dựng công trình để bảo đảm tiện nghi sử dụng gắn với giữ vững khung phong cảnh chung;
  • Tôn trọng tối đa phong cảnh tự nhiên khi xây dựng công trình;
  • Tái lập toàn thể hoặc những bộ phận phong cảnh phải bảo đảm: Ưu tiên khôi phục tối đa phong cảnh nguyên thuỷ; phần tạo dựng bổ sung phải hoà nhập, liên kết với phong cảnh hiện hữu;
  • Xác lập phong cảnh mới theo yêu cầu sử dụng: Buộc phải nghiên cứu địa hình địa mạo để phong cảnh mới không được lấn át, làm tác động xấu đến khung phong cảnh chung;
  • Đẩy mạnh sử dụng phương pháp phong cảnh nhân tạo, có thể thay thế, di chuyển, tùy chỉnh bố cục theo chức năng, có thể thay đổi theo mùa.
Phong cảnh được xác lập thu hút từ sự hòa quyện nhân tạo và tự nhiên

2. Đối với các đô thị:

  • Không được phá vỡ toàn diện hay từng bộ phận phong cảnh tự nhiên, nếu như không thật sự bắt buộc. nếu có sự phá vỡ nào dó thật khẩn cấp trong tiến trình xây dựng thì cần kèm với phương pháp hồi phục tối đa sau xây dựng;
  • Cần tìm cách nghiên cứu để tái hiện những phong cảnh đã mất, đặc biệt là các phong cảnh có giá trị đặc điểm, quan trọng, tạo lên tính riêng cho đô thị;
  • Việc giải toả, thay thế phải coi trọng đến sự khả thi của dân sinh. Sự thay thế phải suy xét tính toán thích hợp, không được phá vỡ phong cảnh và ý nghĩa lịch sử văn hoá cổ truyền khu vực. Bảo đảm phong cảnh sau thay thế có thể tốt hơn;
  • Việc xây dựng những kiến trúc mới cần coi trọng khai thác bản sắc văn hoá vùng miền. Kiến trúc mới phải hài hoà với kiến trúc cũ và định hình không gian hiện hữu, không lấn át, làm hỏng không gian và các kiến trúc hiện có;
  • Với các đô thị lớn, cần quan niệm các trung tâm khu vực đô thị không tùy thuộc vào địa giới hành chánh, mà chủ yếu là phục vụ cho những công năng và vùng tác động;
  • Tại các đô thị lớn, việc xác lập cảnh quan kiến trúc cần có định rõ trọng tâm, phân theo tầng bậc. nhưng không cần phải có giới hạn rõ nét, mà phải đạt được yêu cầu gắn kết trong cảm giác thị giác;
  • Các phong cảnh riêng xác lập cho mỗi công trình, cụm công trình có thể mang tính chủ đề, style phong cách riêng, nhưng phải hoà nhập được với phong cảnh chung. Không phá vỡ, làm tác động theo chiều hướng xấu đến phong cảnh chung;
  • Tại những không gian có giới hạn cụ thể, là các điểm ấn tượng của TP, nghệ thuật công cộng – “Là các tác phẩm nghệ thuật Kiến trúc, hội hoạ, điêu khắc… được các nhà kiến trúc, hoạ sĩ và nhà thiết kế chuyên ngành khác… sáng tác, đem đặt để tạo thành bố cục bằng các ngôn ngữ: dạng khối, đường nét, Màu sắc… diễn đạt content nội dung lịch sử, văn hoá, xã hội, phản ánh cuộc sống của con người, nhằm kiến thiết thẩm mỹ không gian đô thị, giáo dục cảm giác cho cộng đồng”[8]. Cvhính là hạt nhân quyết định diện mạo Kiến trúc phong cảnh.
Phong cảnh nhân tạo nương thuần thục vào địa hình tự nhiên
Kiến trúc cảnh quan truyền thống ở Việt Nam: Tôn trọng tối đa, can thiệp tối thiểu vào hình thái tự nhiên ✔
Những căn nhà xây dựng với quan niệm tuyệt đối tôn trọng địa hình thiên tạo

Một số bình luận về thiết kế Kiến trúc phong cảnh của Việt nam trong khoảng thời gian vừa rồi

  • Các phong cảnh tôn trọng thiên nhiên được ưu tiên càng ngày càng chiếm tỷ trọng lớn. Đây là 1 thành công của cảnh quan kiến trúc;
  • Các không gian tái hiện ở những khu vực phong phú, ở các quy mô không giống nhau đã đạt nhiều kết quả khả thi, góp thêm phần giữ gìn bản sắc vùng miền, TP 1 cách hữu hiệu;
  • Các cảnh quan kiến trúc sáng tạo mới dạng kế thừa tiếp biến hình thái dân gian, phối hợp giữ gìn bản sắc đã đạt rất là nhiều thành công;
  • Các cảnh quan không gian thiết kế, xây dựng mới, xu thế modern hiện đại đã có không ít bứt phá sáng tạo. Nhiều cảnh quan không gian khi tạo thành góp thêm phần rất trọng lượng để tăng tiện nghi sống, giá trị tài sản, nâng cao sức khoẻ, độ an toàn… cuốn hút khách hang 1 cách vững chắc;
  • Các cảnh quan không gian coi trọng đến đa diện chức năng, kể cả các chức năng dẫn dắt đã phát huy được rất nhiều hiệu quả;

Về điểm yếu, có thể thấy còn không hề ít những phong cảnh can thiệp thô bạo vào địa hình, khung cảnh tự nhiên; nhiều phong cảnh hào nhoáng lộng lẫy tốn kém không khẩn cấp; nhiều phong cảnh lại quá sơ sài, không ăn khớp tôn tạo nét đẹp cho không gian chung, thậm chí tác động tiêu cực. Còn có những loại phong cảnh phù phiếm, trưởng giả, hoặc copy sao chép ngoại lai không thích hợp với văn hoá, văn minh Việt Nam; những phong cảnh đặt lạc địa điểm; bản sắc riêng về vùng miền cho 1 mật độ không nhỏ phong cảnh chưa thể hiện rõ; vai trò nhận diện của phong cảnh còn rất mờ nhạt…

Thay lời kết

Có thể tạm tóm lược, thiết kế không gian cảnh quan cùng với phong cách thiết kế quy hoạch, thiết kế công trình, thiết kế trang trí nội thất, là những trụ cột chính của công tác thiết kế kiến trúc xây dựng. Với các đô thị, thiết kế không gian cảnh quan càng có tầm quan trọng, vì đấy là không gian kết nối các thực thể kiến trúc, tác phẩm nghệ thuật và các loại thực thể khác để cấu trúc thành không gian đô thị. Trước đó, khi nền kinh tế nước mình còn nghèo nàn không tân tiến, thì mảng thiết kế này chưa được phân định và để ý. Nhưng trong thực tiễn, từ cổ truyền tạo dựng nơi trú ngụ, hoạt động lao động và nghỉ ngơi, người xưa đã liên tiếp “làm thiết kế” phong cảnh, coi đấy là một mắt xích đương nhiên, liên kết với dựng xây công trình nhà cửa. Chính vì thế, thời nay chúng ta đã được hưởng những cơ ngơi mang đầy chất sinh thái và nhân văn, góp thêm phần vô cùng bổ ích cho đời sống con người phấn chấn thăng hoa, bảo đảm sức khoẻ, chu toàn hạnh phúc và an toàn trong sinh sôi, bảo tồn nòi giống. Việc tiếp biến chặng đường ông cha xác lập cảnh quan kiến trúc là 1 nhiệm vụ rất hệ trọng và khẩn cấp cho thế hệ KTS và cộng đồng hôm nay, trong nhiệm vụ xây dựng nền Kiến trúc modern hiện đại, đậm đà bản sắc.

Khi chuyển đổi khí hậu, thiên tai, bệnh dịch đang hiện hữu và càng ngày càng tàn khốc, sự hội nhập với những hoạch định từ “tương lai thuộc sở hữu châu Á”[9] càng tạo thành nhiều thời cơ và thử thách cho tất cả những người làm nghề. Phát triển Kiến trúc phong cảnh thực sự quan trọng, có tương lai, đầy sáng tạo, ổn định và vững chắc. Trong khuôn khổ hạn hẹp của bài viết, các vấn đề được nêu mới chỉ dừng ở mức rất khái lược. Hy vọng sắp tới, khi ngành Kiến trúc Phong cảnh Việt Nam được đặt đúng địa điểm, sự tiến lên bứt phá, với rất nhiều kết quả càng ngày càng khả thi là 1 điều đương nhiên. Sự đi lên đó, cũng phải song hành cả mặt nghiên cứu lý luận và thực hiện thực tế.

tiến sỹ.KTS Phan Đăng Sơn
Chủ tịch hội KTS Việt Nam – Tổng biên tập TCKT
(Bài đăng trên TCKT số 07-2021)


Tài liệu tham khảo:
[1].KTS Nguyễn Cao Luyện – Từ những mái nhà tranh truyền thống. NXBKĐ2007;
[2], [5], [7]. KTS Lưu Đức Hải – Từ những góc độ về Kiến trúc phong cảnh. NXBVN. 2006;
[3], [4]. Internet. Wikipedia tiếng Việt;
[6]. KTS Vũ Hiệp – Đô thị Việt Nam, góc độ từ những nơi chốn. NXBXD2016. Tr12;
[8]. tiến sỹ Nguyễn Thị Lan Hương, PGS. tiến sỹ Nguyễn Văn Dương – Những cơ sở khoa học về nghệ thuật công cộng. Kỷ yếu HTKH nghệ thuật công cộng kiến thiết điểm đến du lịch. Hà nội 2020, tr130;
[9]. Parac Khanna – Tương lai thuộc sở hữu châu Á – Thương mại, xung đột, và văn hoá trong thế kỷ 21. NXBT.2020 (bản dịch Mai Chí Trung);

Thêm nhiều thông tin hấp dẫn với BdsNhaDat.com.vn



T.H

Tham gia thảo luận

So Sánh BĐS

So sánh