Khoa học nghiên cứu về hành vi – môi trường: Cơ sở lý luận cho thiết kế môi trường kiến trúc ☑

Khoa học nghiên cứu về hành vi – môi trường: Cơ sở lý luận cho thiết kế môi trường kiến trúc ☑


Các KTS, các nhà thiết kế đều nhắm đến việc tạo nên các công trình thỏa mãn nhu cầu, công năng không giống nhau của con người. Mặc dù thế, sự thành công chỉ được định rõ khi và chỉ khi công trình đó hoàn tất và đem vào sử dụng. Để biết được nó có thật sự thoả mãn mục tiêu lúc đầu và thích hợp với hoàn cảnh xã hội văn hoá không – Một không gian được nhận xét là thành công khi thoả mãn được không ít người dùng (Donald et al, 1981; Laurence, 2006; Lynch and Rodwin, 1958; Whyte, 2009).

Trong lúc ấy, nhà thiết kế triển khai các đồ án dựa trên kinh nghiệm nghề nghiệp của họ và tổng thể tiến trình thiết kế thường diễn ra độc lập với sự tham dự trực tiếp của người dùng (Kar and Sarkar, 2017). Sự tham dự của những ngành khoa học giúp tạo nên một hệ sinh thái sống tốt hơn và vững chắc hơn, đáng lưu ý là sinh thái học, vật lý kiến trúc, tâm lý học, tâm thần học, y tế cộng đồng… Mỗi tiếp xúc không giống nhau góp phần một giá trị nhất định đến việc phát triển, xây dựng hệ sinh thái sống của con người. Chẳng hạn như tiếp xúc kiến trúc xanh tựa vào các tiêu chuẩn sinh thái hệ sinh thái để tạo dựng không gian sinh sống cho con người và thoả mãn điều kiện vi khí hậu, tạo cảm nhận dễ chịu cho tất cả những người sử dụng. Mặc dù thế, việc xây dựng hệ sinh thái sống là 1 tổng quát hài hòa giữa những biến số không giống nhau, các học giả nỗ lực lượng hóa chỉ số hài hòa của hệ sinh thái sống này kinh qua các tiếp xúc không giống nhau, đáng lưu ý là chỉ số “toàn thể” của một cấu trúc được kiến nghị bởi Christopher Alexander (Jiang, 2015) và các chỉ số “cú pháp không gian” của Bill Hillier (Bafna, 2003) dựa trên cấu trúc hình học căn bản và hình học tô-pô1 . Một tiếp xúc khác bao quát toàn thể các biến số và phân tích và lý giải mối liên hệ giữa con người và môi trường cảnh quan phải kể tới đấy là nghiên cứu về “Hành vi – hệ sinh thái”. Đây là 1 lĩnh vực đa ngành nhấn mạnh sự tham dự của người dùng và lấy con người làm trọng tâm trong tiến trình thiết kế.

Lý thuyết khoa học nghiên cứu hành vi – hệ sinh thái

Các KTS thường giả định nhu cầu của con người và quyết định việc làm như thế nào để thoả mãn những nhu cầu đó cực tốt. Những giả định này, phần đa dựa trên những tiến trình không nghiêm ngặt và mang tính khoa học. Nhiều nghiên cứu cho rằng, cảm thức của KTS khác với cảm thức phổ biến của người thông thường (Moore, 2006). Giả dụ, kiến trúc sư nghĩ rằng các nhân tố thị giác là thứ ưu tiên bậc nhất trong thiết kế các không gian công cộng, nhưng kết đúng là tế đã cho thấy rằng người dùng ít quan tâm đến nhân tố này (Francis, 2003).

Để lấp vào khoảng trống giữa các gì con người muốn và những gì đang có thiết kế bởi các KTS, lĩnh vực nghiên cứu về Hành vi – Hệ sinh thái (Environmental Behavior Studies-EBS)đã được tạo thành với sự liên hợp từ các ngành kiến trúc, quy hoạch và thiết kế đô thị cùng với những biến số đầu vào từ các ngành khoa học nhân văn và hành vi. Có thể thấy rằng, trong ngành kiến trúc, EBS là 1 khung kiểm duyệt có hệ thống về mối liên hệ giữa xây dựng hệ sinh thái và hành vi con người và sự vận dụng của chính nó trong quá trình thiết kế.

EBS, có thể đã bắt đầu khoảng hơn 45 năm về trước vì phát hiện thấy lỗ hổng trong kiến thức về sự việc làm như thế nào mà con người và hệ sinh thái tương tác với nhau. Những kiến thức như thế tưởng chừng như rất quan trọng cho việc thiết kế. Thiếu nó, những nỗ lực cải thiện hệ sinh thái xây dựng – những gì thường gọi là “thiết kế”- tưởng chừng như là thất bại, cũng chính vì không có 1 “đầu ra” nào có thể được phán đoán 1 cách uy tín. Cũng thật khó nếu như không muốn nói là không thể, để biết được lúc nào 1 sản phẩm có thiết kế thành công – Khi mà dường như không có quy chuẩn nào cho sự thành công (Rapoport, 2008). Không người nào có thể biết được một hệ sinh thái kiến trúc “tối ưu” mà dường như không biết chúng tốt hơn ở điểm gì, tốt hơn cho ai, và vì sao nó tốt hơn… Điển hình mà nói, có 1 phong trào thiết kế “phê bình”, thường là quan điểm “tôi thích hoặc không thích nó” hơn là 1 sự nhận định liệu có phải thiết kế này có chủ đích rõ nét, đã đạt được hay chưa, và những đích đến này còn có hợp lệ không? Và thậm chí nếu có thể đạt được sự thành công và được nhận xét hợp lệ để đạt được một thành tựu, đấy là một vấn đề may rủi. Những thành công như thế không cung ứng được bài học gì cho tương lai, và cũng không có thời cơ để phát triển một khối kiến thức thu thập cho thiết kế dựa trên minh chứng. Thật không may, cho tới bây giờ, các loại kiến thức này trang bị cho những KTS và việc đào tạo người làm thiết kế ở Việt Nam chưa không thiếu.

EBS còn được biết đến với tên thường gọi tâm lý học hệ sinh thái, nghiên cứu về hệ sinh thái và con người, là 1 lĩnh vực liên ngành tập trung vào sự tương tác giữa những cá nhân và môi trường cảnh quan (Moore, 2006). Đây là 1 ngành khoa học tìm hiểu cách mà môi trường thiên nhiên và hệ sinh thái do chúng ta xây dựng định hình/ ảnh hưởng chúng ta ra sao. Ngành khoa học này định nghĩa thuật ngữ hệ sinh thái 1 cách bao quát, gồm có môi trường thiên nhiên, hệ sinh thái xã hội, hệ sinh thái được xây dựng, hệ sinh thái học tập và hệ sinh thái thông tin (Takahashi, 1997).
Nguồn gốc của lĩnh vực nghiên cứu này vẫn chưa được định rõ, mặc dù thế, Willy Hellpach được cho là người trước tiên đề cập đến thuật ngữ “tâm lý học hệ sinh thái”. 1 trong những quyển sách của ông, Geopsyche, bàn thảo về chủ đề: Mặt trời và mặt trăng tác động ra sao đến hoạt động của con người, ảnh hưởng của hệ sinh thái hà khắc, tác động của Màu sắc và cách thức (Pol, 2006)

Hình 1: Nghiên cứu hệ sinh thái, hành vi và xã hội là nơi hợp lưu của đa số phần thuộc của khoa học xã hội và chuyên ngành xây dựng hệ sinh thái.

Giữa các học giả lớn trong lĩnh vực này, phải kể tới Jakob von Uexküll, Kurt Lewin, Egon Brunswik, và tiếp nối là Gerhard Kaminski và Carl Friedrich Graumann. EBS được triển khai kinh qua công cụ nhận định sau thời điểm đem vào sử dụng (POE – Post Occupancy Evaluation). Hình 1 miêu tả phạm vi áp dụng của EBS trong mối liên hệ giữa những lĩnh vực nhỏ liên quan.

Mô hình hoạt động và địa điểm của EBS trong quá trình thiết kế

– EBS trong quá trình thiết kế

EBS là 1 phần nằm ở trong chuỗi tuần hoàn của lĩnh vực nghề nghiệp xây dựng hệ sinh thái, liên quan đến chính sách thiết kế, xây dựng kiến trúc, và quản trị quy hoạch hệ sinh thái xây dựng; liên quan đến người dùng; liên quan đến tích lũy các thông tin về trải nghiệm của người sử dụng và nhận định của người dùng kinh qua cách thức nhận định sau thời điểm đem vào sử dụng (Post Occupancy Evaluation – POE). Nghiên cứu EBS dựa trên thông tin tích lũy được kinh qua POE và sử dụng các phát hiện này để tạo nên và tùy chỉnh các chính sách cho quy hoạch, thiết kế và xây dựng.

Đi sâu vào tìm hiểu cụ thể hành vi hệ sinh thái trong quá trình thiết kế, thông tin và các ý tưởng của EBS phải được vận dụng và tích hợp vào tất cả những giai đoạn của tiến trình thiết kế bắt đầu với sự tiến lên các ý tưởng và phác thảo cho tới sự triển khai và hoàn chỉnh dự án, và xa hơn là khảo nghiệm sự phản ứng của con người đối với công trình đó. Các mô hình này được kiến nghị bởi John Zeisel và phát triển lên bởi Gary T. Moore. Hình 2 ở dưới phác thảo quy trình tổng thể tiến trình thiết kế và các thành phần liên quan.

Hình 2: Mô hình hoạt động của xây dựng hệ sinh thái kiến trúc

– Mô hình truy vấn của EBS

Nhận định sau thời điểm đưa công trình vào sử dụng là 1 trong các mô hình truy vấn chính của EBS. POE đã được không ít nhà nghiên cứu và thiết kế xem là một công cụ không thể không có trong việc tạo dựng hệ sinh thái xây dựng vững chắc và thỏa mãn nhu cầu của người dùng. Những kết quả của POE từ các công trình kiến trúc, khi phối hợp vào các dự án trong tương lai sẽ mang lại sự hài lòng hơn cho tất cả những người dùng (hình 3).

Hình 3: Quá trình từ thiết kế đến khi nhận định sau thời điểm đem vào sử dụng của một công trình kiến trúc và các bước triển khai.

– APR, công cụ áp dụng kết quả nghiên cứu EBS trong thực tế thiết kế

Ở góc độ của EBS, công trình kiến trúc không có 1 mục tiêu rõ nét cũng chính vì hệ sinh thái kiến trúc là 1 trong các nhân tố giúp cải thiện chất lượng cuộc sống. Hơn thế nữa, EBS không nhắm tới việc cung ứng dữ liệu bổ ích 1 cách trực tiếp cho thiết kế, nhưng chứng tỏ các phương hướng và quy tắc tạo thành nên hệ sinh thái kiến trúc dựa trên việc tìm hiểu tất cả mối liên hệ giữa con người và hệ sinh thái gồm có sự tiến lên tổng thể toàn diện trong sự tương tác với con người.

Trong lúc ấy, tựa vào hiểu biết bình thường về lĩnh vực nghiên cứu quy hoạch kiến trúc (Architectural Planning Research – APR), cái gì được “thiết kế” thường ám chỉ đến việc thiết kế kiến trúc hoặc là hệ sinh thái kiến trúc. Thái độ này thường xem các tổ hợp vật lý của việc xác lập hệ sinh thái kiến trúc giống như những nhân tố độc lập để đạt được những hiệu quả ước muốn trên phương diện hành vi và sự tốt lành cho tất cả những người sử dụng.

APR đóng vai trò như 1 công cụ áp dụng kết quả của EBS trong thực tế thiết kế. Thật vậy, những gì có thiết kế nghĩa là hoạch định một hệ thống tổng thể gồm có cả cuộc sống hàng ngày của con người. Thiết kế hệ sinh thái về cơ bản đồng nghĩa với thay đổi hay là bất biến mức độ có thể trang bị của một hệ sinh thái kiến trúc, hoặc là rộng mở khả năng tự hiện thực hóa của con người.

– Nghiên cứu về quy hoạch kiến trúc (APR).

Thuật ngữ quy hoạch kiến trúc được phát triển ở Nhật Bản mang lại sự tò mò cho những học giả Tây Phương. Về ý nghĩa của thuật ngữ này, không tương đồng với quan niệm của Tây Phương điều mà kiến trúc được coi là một lĩnh vực nghệ thuật, Nhật Bản quan niệm kiến trúc là lĩnh vực thiên về kĩ thuật. Theo đó, “quy hoạch” ám chỉ đến công việc “thiết kế” điều mà ở Nhật Bản được coi như 1 thuật ngữ mang nghĩa tương tự như là “lập trình/ hoạch định”.

Sự khác lạ của EBS và APR được giáo sư Kunio Funahashi (1997) (Takahashi, 1997) miêu tả kinh qua 4 đặc thù:

+ Trước tiên là nghiên cứu “không gian kiến trúc được dùng cho việc gì”. Trong APR có một vài điểm giống với việc nhận định công trình sau thời điểm đem vào sử dụng. Mặc dù thế, APR có khuynh hướng xác định hướng chung, có khả năng vận dụng hơn cho tất cả những loại hình công trình, APR can thiệp vừa phải và trực tiếp hơn so với EBS, cái mà tưởng chừng như là xác định hướng cơ sở để cải thiện các vấn đề được tìm thấy kinh qua các quy trình nhận định.

+ Thứ 2 là APR thăm dò ý kiến mối liên hệ giữa cuộc sống con người và các điều kiện không gian kiến trúc trong giới hạn của các kiến nghị quan trọng như “kiến trúc và con người” hoặc “cuộc sống và không gian kiến trúc”. Ở đây, điều kiện không gian kiến trúc nghĩa là dáng hình, kích thước, và/ hoặc sự bố trí, tổ hợp công trình. Khái niệm về cuộc sống con người đã được dựa trên cổ truyền, như là các hoạt động thường ngày trong phạm trù của loại hình, cấu trúc không gian thời gian, và mức độ hiệu suất trơn của những hoạt động. Trái lại EBS, nhắm tới cải thiện “chất lượng cuộc sống”, có khuynh hướng gồm không chỉ có phương diện công năng (như trong APR), mà còn là tâm lý học, nhận biết, lĩnh hội và những nhu cầu tương tác xã hội của con người, những khác lạ văn hoá trong lối sống, ý nghĩa và biểu tượng của hệ sinh thái kiến trúc. Bởi vậy, có những mục tiêu và cách tiếp xúc không giống nhau giữa APR và EBS trong việc giải quyết vấn đề. Có thể nói rằng rằng, EBS khảo nghiệm mối liên hệ giữa sự phú quý trong tinh thần của con người và hệ sinh thái.

+ Thứ 3, khái niệm “hệ sinh thái” trong APR ám chỉ rằng hệ sinh thái kiến trúc chỉ đề cập đến các nhân tố “vật lý” hoặc là “không gian”. Thậm chí nếu như nó thành công trong việc chỉ rõ các ảnh hưởng của những yếu tố hệ sinh thái lên cuộc sống con người thì những kết quả tưởng chừng như bị giới hạn trong sự trừu tượng tổng thể thực tiễn của cuộc sống chúng ta. Làm như thế nào chúng ta hiểu khái niệm về cái gọi là các yếu tố vật lý hay là yếu tố kiến trúc? EBS hầu như tiếp xúc không còn xa lạ tới hiện thực của tất cả hệ sinh thái gồm có cả những góc nhìn văn hoá xã hội bao bọc chúng ta trong cuộc sống hàng ngày.

+ Cuối cùng, với APR, mối liên hệ giữa những điều kiện kiến trúc và đời sống con người được quan niệm 1 cách điển hình như là sự định rõ và/hoặc là tương tác. Đặc biệt, từ ý kiến về “sự sáng tạo kiến trúc” trong tư tưởng kiến trúc mang nặng chủ nghĩa công năng, các thái độ quyết đoán sẽ đến 1 cách tự nhiên từ những ước muốn của chúng ta. Mặc dù thế, rõ nét rằng, các quyết định kiến trúc có lẽ còn tồn tại những hạn chế khi nhận định thấp sự lệ thuộc lẫn nhau của con người và hệ sinh thái xây dựng. Vì thế, APR được coi xét là 1 bước rộng mở của EBS giúp truyền tải sự hiểu biết về mối liên hệ của con người và hệ sinh thái vào các thiết kế cụ thể. Hình 4 khái quát ý nghĩa giữa EBS và APR trong việc tạo dựng không gian kiến trúc.

Khoa học nghiên cứu về hành vi – môi trường: Cơ sở lý luận cho thiết kế môi trường kiến trúc ☑
Hình 4: Sự khác lạ về mặt ý nghĩa của EBS & APR

Lời kết

Nghiên cứu về hành vi hệ sinh thái vừa tập trung vào lý thuyết vừa xác định hướng vấn đề. Một mặt, hoàn cảnh hệ sinh thái hành vi được coi là toàn diện, nó cho phép phân định một lĩnh vực mới tập trung vào lý thuyết. Mặt khác, sự hợp tác của những nhà tâm lý học (gồm có lĩnh vực học thuật và chuyên môn nghề nghiệp) với những người làm chuyên môn khác vẫn còn giới hạn để tìm ra một thay mặt đại diện cho vấn đề cụ thể trong nghiên cứu về hệ sinh thái và hành vi.

Đối với các xác định hướng tương lai của nghiên cứu này, sự tiến lên tiếp tục trong mối liên hệ hợp tác làm việc giữa những nhà tâm lý học, KTS, các nhà quy hoạch và đẩy mạnh nhấn mạnh các nghiên cứu miêu tả cho mục tiêu khám phá phương thức mà trong đó, con người tận dụng 1 cách tích cực môi trường cảnh quan bằng nhiều các xác lập không giống nhau.

Một sách lược chung cho việc nghiên cứu về sự giao dịch giữa con người và hệ sinh thái được lập ra nhấn mạnh “đơn vị xã hội” hơn là các “hành vi đơn chiếc”. Vài đặc tính khác lạ về đơn vị xã hội đã được nhận diện, gồm có sự hợp tác của chúng ở các cấp độ hành vi và tổ chức 1 cách có hệ thống, kiểu mẫu.

Dù rằng sự phân tích các đơn vị xã hội không cấu thành nên một lý thuyết về mối liên hệ giữa con người và hệ sinh thái, nhưng nó cung ứng 1 cách cơ bản khả dĩ cho việc phân biệt nghiên cứu hành vi và hệ sinh thái từ các lĩnh vực cổ truyền về nghiên cứu tâm lý học (ví như tâm lý học xã hội). Cụ thể hơn, xác định hướng đơn vị xã hội gợi nhắc một vài phương hướng và câu hỏi cho nghiên cứu trong tương lai điều mà có lẽ tạo thành ý niệm cố kết, nghiêm ngặt hơn cho lĩnh vực hành vi và hệ sinh thái.

Rapoport (1990) nói rằng: Mọi kiến trúc sư hệ sinh thái sống của họ, như 1 hệ quả – Chúng ta sống trong môi trường không gian cảnh quan văn hoá và chúng ta có trách nhiệm chia sẻ những quy tắc tạo dựng khung hệ thống hệ sinh thái đó, thậm chí là con người trong thời đại văn hóa và địa phương nào đấy. Công việc thiết kế trong thế giới modern hiện đại có thể được hiểu không phải là hoạt động trong tầm tròn khép kín của kiến trúc sư và những con người liên quan, cũng không phải là 1 hoạt động tách biệt ra khỏi thế giới vòng quanh – Công việc thiết kế trong thời kỳ hiện tại buộc phải đặt giữa toàn thể thế giới và chúng trở nên có ý nghĩa hơn khi mà toàn bộ hành vi của con người và kiến thức được tôn tạo theo môi trường cảnh quan 1 cách hài hòa.

Đỗ Duy Thịnh
Khoa Kiến Trúc – Trường Đại học Xây dựng Miền Tây
(Bài đăng trên TCKT số 02-2020)

 

Tài liệu tham khảo
– Bafna, S., 2003. Space syntax: A brief introduction to its lô gích and analytical techniques. Environ. Behav.
– Donald, A., Gerson, M.S., Lintell, M., 1981. Livable streets. Berkely/Los Angeles/London.
Francis, M., 2003. Urban open space : designing for user needs, Land and community design case study series.
– Jiang, B., 2015. Wholeness as a hierarchical graph to capture the nature of space. Int. J. Geogr. Inf. Sci.
Kar, A.Z., Sarkar, A., 2017. Exploring the role of Environment-Behavior Studies (EBS) in Residential Architecture-From Literature Reviews to Field Study. (Irjet).
– Laurence, P.L., 2006. The death and life of urban design: Jane Jacobs, the Rockefeller Foundation and the new research in urbanism, 1955-1965. J. Urban Des.
– Lynch, K., Rodwin, L., 1958. A Theory of Urban Form. J. Am. Plan. Assoc.
– Moore, G.T., 2006. Environment , Behaviour and Society : A Brief Look at the Field and Some Current EBS Research at the University of Sydney, in: 6th Internatonal Conference of the Environment-Behavior Research Association.
– Pol, E., 2006. Blueprints for a History of Environmental Psychology (I): From First Birth to American Transition. Medio Ambient. y Comport. Hum.
– Rapoport, A., 2008. Environment-behavior studies: Past, present, and future. J. Archit. Plann. Res. 276–281. Takahashi, T., 1997. Handbook of Japan–United States environment–behavior research: toward a transactional approach, in: Handbook of Japan–United States Environment–Behavior Research: Toward a Transactional Approach.
– Whyte, W.H., 2009. The social life of small urban spaces, in: Common Ground?: Readings and Reflections on Public Space.

Thêm nhiều thông tin hấp dẫn với BdsNhaDat.com.vn



T.H

Tham gia thảo luận

So Sánh BĐS

So sánh