Một số định hướng phát triển kiến trúc cảnh quan ở Việt Nam ⭐

Một số định hướng phát triển kiến trúc cảnh quan ở Việt Nam ⭐


Trong các thập kỷ vừa mới đây, khi quá trình đô thị hóa ở Việt Nam diễn ra nhanh gọn, Cảnh quan kiến trúc (KTCQ) đã trở nên khá thân thuộc và được không ít người nhắc về, được gọi là một content nội dung quan trọng trong những đồ án quy hoạch, thiết kế, xây dựng đô thị, tái kiến thiết phong cảnh hệ sinh thái sống và bảo tồn các di tích văn hóa, lịch sử. Lĩnh vực này sinh ra, song hành và phát triển liên tiếp theo tiến trình lịch sử phát triển của xã hội nhân loại. Bài viết này khái quát sự đi lên của lĩnh vực KTCQ qua các thời kỳ phát triển kinh tế, xã hội ở nước ngoài và bàn thảo một vài xác định phương hướng phát triển lĩnh vực KTCQ ở Việt Nam.

Một số định hướng phát triển kiến trúc cảnh quan ở Việt Nam ⭐
Phong cảnh cung điện Versaille – một công trình phong cảnh tiêu biểu cho thời kỳ xã hội phong kiến phương Tây
(Nguồn: https://www.archpaper.com/2021/07/the-palace-of-versailles-opens-as-an-ultra-luxurious-hotel-for-a-princely-sum/)

Khái quát sự đi lên lĩnh vực Cảnh quan kiến trúc ở nước ngoài

1. Thời kỳ nền kinh tế nông nghiệp tiểu nông

Thời kỳ kinh tế tiểu nông và tiểu bằng tay nghiệp gắn với chế độ xã hội phong kiến phương Tây. Đặc thù phát triển phong cảnh thời kỳ này bắt đầu từ sự cải tạo và làm đẹp phong cảnh ở các khu nông trang của tầng lớp quý tộc phong kiến để đáp ứng nhu cầu thường thức nét đẹp của tự nhiên và thể hiện địa thế trong xã hội. Nghệ thuật tranh cảnh quan, thơ cảnh quan đã được ứng dụng vào trong xây dựng vườn cảnh. Tất nhiên, sự tận hưởng những tác phẩm phong cảnh này chỉ dành cho các tầng lớp quý tộc và nó được vây quanh bởi các bức tường rào. Đặc thù phong cảnh nổi trội trong những khu vườn thời kỳ này là thể hiện nét đẹp cách thức, các tường rào cây cối được cắt tỉa tạo hình tỉ mỉ, các bồn hoa thiết kế mô phỏng các dạng hoa văn trang trí. Gia chủ là người sáng tác và quyết định chính cho những công trình, người làm nghề vườn cảnh dù cho có có tài đến đâu riêng gì đóng vai trò thứ yếu – “bảy phần chủ, ba phần thợ”. Qua đó có thể thấy, trong tư tưởng xây dựng phong cảnh của tầng lớp quý tộc phong kiến trước kia vẫn không thoát ly khỏi tư tưởng tiểu nông.

2. Thời kỳ cách mạng công nghiệp và ý kiến hồi sinh thể trạng, tinh thần

Cách mạng công nghiệp khởi nguồn từ nước Anh lan tỏa ra nhiều nước trên thế giới. Nó đã mang đến những thay đổi rộng lớn trong xã hội, trào lưu công nhân và giai cấp công nhân phát triển mạnh mẽ. Các đô thị không những còn là nơi ở dành riêng cho giới quý tộc mà còn là nơi ở và làm việc của đại bộ phận giai cấp công nhân. Một đặc điểm nhấn trong giai đoạn này là người dân tập trung đông đúc trong những đô thị và nhu cầu cần phải có những không gian xanh phong cảnh, phục vụ nghỉ ngơi giải trí, tái hiện sức lao động bắt đầu xuất hiện. Frederick Law Olmsted, người có công sáng lập ngành KTCQ đã có lần nói: “Văn minh con người không ngừng chế tạo lên các loại thuốc để thắng lợi bệnh tật, nhưng tâm bệnh làm thiệt hại sức khỏe, sự hạnh phúc của họ cũng đang càng ngày càng nghiêm trọng và chưa có thuốc chữa, chỉ với luyện tập trong hệ sinh thái ôn hòa và dưới ánh sáng tự nhiên mới có thể làm cân bằng tuần hoàn khí huyết, thư giãn đầu óc, khiến con người được hồi sinh sức khỏe, được mạnh khỏe và tươi vui”. Những nơi phù hợp nhất để có thể đạt được điều đó là những khu vườn, nông trang với địa hình cao thấp, có thảm cỏ, đám cây, mặt nước gợn sóng vẫy gọi sẽ có công dụng tốt cho việc cải thiện sức khỏe thể trạng và tinh thần của chúng ta (Faludi, 1987). Bây giờ, phong cảnh công viên (Park – like landscape) bắt đầu được mỗi người quan tâm nghiên cứu và đánh giá rằng những đặc thù của không gian công viên sẽ hỗ trợ con người khơi dậy những bản năng tự nhiên và cải thiện sức khỏe tâm lý (Appleton, 1975; Kapplan, 1985).

Frederick Law Olmsted là người đi đầu và cũng chính là người sáng lập nghề KTCQ ở Mỹ năm 1865 và từ đấy phát triển ra nhiều nước trên thế giới. Khoảng năm 1858 – 1861, Frederick Law Olmsted cùng người đồng nghiệp là KTS Calvert Vaux, sau thời điểm hoàn tất đồ án thiết kế Công viên Trung tâm TP New York, đã tự phân biệt nghề nghiệp của mình với nghề làm vườn cổ truyền (Gardening) và gọi đấy là nghề Cảnh quan kiến trúc (Landscape architecture). Ông cũng tự đặt danh hiệu nghề nghiệp của mình là KTS phong cảnh (Landscape architect), không còn là người làm vườn (gardener) nữa. Năm 1900, Trường đại học Havard là nơi trước tiên đào tạo ngành KTCQ. Từ đấy KTCQ trở thành một lĩnh vực khoa học thật sự, và KTS phong cảnh cũng chính thức được xã hội thừa nhận. Lĩnh vực nghiên cứu và hoạt động của ngành KTCQ liên quan đến nhiều lĩnh vực, từ quy hoạch thiết kế công viên, hệ thống không gian xanh, đường phố, khu ở, trường học, khu trung tâm thương mại đến các nông lâm trường và công viên rừng đất nước…

3. Thời kỳ hậu công nghiệp và duy trì vững chắc môi trường

Sau chiến tranh thế giới thứ hai, công nghiệp hóa và đô thị hóa ở các nước phương Tây đạt đến cao trào, xuất hiện khái niệm “u ác tính trong thân thể đô thị” với đồng loạt đô thị liên tiếp được rộng mở, dẫn đến mất kiểm soát hệ sinh thái, giao thông đô thị bị tắc nghẽn, hệ thống không gian xanh công viên không đủ để cải thiện hệ sinh thái đô thị…

Sau thời kỳ công nghiệp, phong cảnh các vùng ven đô thị cũng bị tác động nghiêm trọng để cho phong cảnh bị chia cắt, quá trình sinh thái tự nhiên bị phá vỡ, tính phong phú sinh vật suy giảm làm tác động xấu đến hệ sinh thái sống. Trong lúc ấy, con người chưa tìm kiếm được giải pháp tiếp xúc thích ứng với tự nhiên trong phát triển đô thị (Gadgil, 1987).

Bây giờ, đối tượng nghiên cứu của lĩnh vực KTCQ không những giới hạn ở sự tồn tại mạnh khỏe của con người mà còn phải rộng mở đến sự tồn tại của các loại sinh vật khác. Bảo vệ, duy trì các quá trình sinh thái tự nhiên và hệ sinh thái sống của những sinh vật khác chính là bảo vệ và duy trì hệ sinh thái sinh tồn của chính bản thân con người hiện nay và tương lai. Bởi thế, cần rộng mở nghiên cứu tổng thể phong cảnh vùng, sự phong phú không gian của những môi trường để xây dựng mối liên hệ tương trợ giữa văn hóa quyển và sinh vật quyển (Landscape mosaic, Forman, 1995). Lần trước tiên, tư tưởng quy hoạch sinh thái được đề cập trong tác phẩm lừng danh nói đến Thiết kế gần với tự nhiên (Design with nature, 1969) của I. L. McHarg. Đây là dấu mốc khởi sướng một cuộc cách mạng về quy hoạch sinh thái tự nhiên và sinh thái nhân văn trong lĩnh vực KTCQ mai đây. Mô hình quy hoạch sinh thái xếp lớp kiểu bánh Piza của I.L. McHarg có tương đối nhiều điểm mạnh, song cũng dễ nhận biết thấy những khuyết điểm. Thứ đặc biệt là mô hình quy hoạch thiên về phân tích mối liên hệ sinh thái theo phương đứng trong một đơn nguyên cảnh quan không gian, coi nhẹ quá trình sinh thái theo phương ngang, được coi là dòng sinh thái liên thông giữa những đơn nguyên không gian trong phong cảnh (Faludi, at al, 1987); thứ 2 là quá nhấn mạnh vai trò quyết định của tự nhiên đến quy hoạch sử dụng đất và hoạt động của con người. Thực tiễn, trong quy hoạch, ngoài sự nhận biết quá trình tự nhiên còn phải nghiên cứu quá trình thích ứng với tự nhiên của con người (Steinitz, 1985). Bởi thế, nhiệm vụ của KTS phong cảnh vừa là nhà điều tiết vừa là nhà chỉ huy để tạo lên hệ sinh thái phát triển vững chắc, cùng tồn tại cho cả con người và các sinh vật khác trong một khu vực nhất định. Như thế, KTS phong cảnh không chỉ là kiến thức vững vàng về quy hoạch thiết kế, kỹ thuật công trình, sự hiểu biết về thẩm mỹ, văn hóa, lịch sử, còn phải được trang bị những kiến thức cả về sinh vật, sinh thái, phong phú sinh học và hệ sinh thái.

Một vài xác định phương hướng trong phát triển lĩnh vực Cảnh quan kiến trúc ở Việt Nam

Lĩnh vực KTCQ gần như bao quát tất cả các công việc liên quan đến khoa học, kỹ thuật và nghệ thuật tạo hình để kiến thiết không gian hệ sinh thái sống phía bên ngoài cho con người. Khi kinh tế xã hội càng phát triển, nhận biết về hệ sinh thái sống càng nâng cao, lĩnh vực KTCQ càng nhận được không ít sự chú ý của xã hội. Có thể thấy thị trường trong lĩnh vực ở nước mình đang có một vài tồn tại nhất định cần phân tích để gợi mở những xác định phương hướng phát triển mới.

Công viên trung tâm (Central Park) TP. New York, Mỹ
https://en.wikipedia.org/wiki/Central_Park

1. Về tên thường gọi chức danh nghề nghiệp

Hiện tại, cùng đào tạo Ngành KTCQ với mã ngành giống nhau nhưng cơ sở đào tạo này thì cấp bằng KTS, cơ sở đào tạo kia lại cấp bằng Kỹ sư. Thực tiễn, chuyên ngành trên thế giới chỉ với 2 loại bằng chức danh nghề nghiệp đấy là Cử nhân KTCQ và KTS phong cảnh. Người tốt nghiệp chương trình Cử nhân muốn lấy bằng KTS phong cảnh buộc phải học bổ sung một lượng kiến thức và kĩ năng nhất định. Nếu Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Xây dựng, phân xác định vấn đề này, sẽ cản được sự chồng chéo trong lĩnh vực hành nghề giữa các người có bằng KTS và người có bằng KTS phong cảnh.

2. Về xác định phương hướng nghiên cứu của lĩnh vực KTCQ

Xác định phương hướng nghiên cứu của lĩnh vực KTCQ gồm có: Lịch sử và lý luận, quy hoạch và thiết kế không gian cảnh quan, quy hoạch và hồi phục sinh thái vùng, bảo tồn di tích k, áp dụng thực vật trong phong cảnh, kỹ thuật xây dựng phong cảnh.

3. Về thị trường hoạt động của lĩnh vực KTCQ

Các sản phẩm trong lĩnh vực KTCQ có tính đặc điểm, yêu cầu tính an toàn không nghiêm ngặt và liên đới trách nhiệm không nặng nề như lĩnh vực Thiết kế kiến trúc công trình, nên có hiện tượng ai ai cũng có thể làm. Những người chưa qua đào tạo chỉ cần phải có kinh nghiệm về làm vườn hoặc được đào tạo một ngành nào đấy liên quan đến quy hoạch thiết kế đô thị, kiến trúc, xây dựng là có thể đảm nhận công việc thiết kế, xây dựng các công trình phong cảnh. Theo dân gian mà nói, đó chính là hiện tượng “vàng thau lẫn lộn”. Những công trình quy mô nhỏ và vừa, có những người còn thiết kế free nhưng đổi lại là được xây lắp xây dựng công trình. Những công trình phong cảnh lớn và quan trọng nhưng năng lực của đơn vị thiết kế lại chủ yếu trong lĩnh vực Quy hoạch đô thị, Thiết kế kiến trúc, thậm chí là hạ tầng, đội ngũ chuyên gia được mời nhận định phương án cũng không thuộc lĩnh vực chuyên sâu về KTCQ. Chính những điều đó, vô hình chung đã để cho thị trường hoạt động trong lĩnh vực trở nên mất xác định phương hướng và khó nhận được những phương án quy hoạch thiết kế không gian cảnh quan chất lượng tốt. Bởi thế, để thị trường hoạt động của lĩnh vực KTCQ dần đi vào bản chất, các cơ quan quản lý cũng phải phải có những luật lệ rất cụ thể về chứng nhận năng lực hành nghề trong lĩnh vực KTCQ như lĩnh vực Kiến trúc, xây dựng công trình như đã có lần triển khai.

4. Giữ gìn bản sắc địa phương, không mơ hồ thể hiện đẳng cấp

Cái gọi là cao quý và sang trọng, đẳng cấp hiểu đúng thì đây là mục đích mà các KTS phong cảnh đều nhắm tới và có thể theo đuổi suốt cuộc đời. Nhưng vấn đề này trong thực tiễn thỉnh thoảng lại khác, tương đối nhiều những công trình kiến trúc sư, nhà đầu tư vì cố ước muốn thể hiện sự đẳng cấp hơn người hoặc tạo nên sự tò mò nhất thời mà lấy cái cao to, hoành tráng làm ưu tiên, coi nhẹ hồn cốt của tác phẩm; truy lùng những thứ nguyên vật liệu đắt tiền, những cây xanh không quen nhập khẩu từ nước ngoài, quên lãng những thứ nguyên vật liệu sẵn có ở nội địa, ở địa phương; thậm chí, còn mô phỏng phong cảnh của cả một tuyến phố hay những công trình lừng danh có tính biểu tượng ở nước ngoài 1 cách miễn cưỡng làm mất đi bản sắc địa phương cũng như không thích hợp với môi trường không gian cảnh quan sinh thái khu vực. Nhiều nhà quản lý, nhà đầu tư đi ra nước ngoài, ấn tượng và thích thú với phong cảnh phương Tây, liền mang ý kiến cá nhân áp đặt vào các dự án ở Việt Nam, điều đáng nói ở đây là chẳng người Mỹ, người châu Âu, hay người Nhật,… nào đến Việt Nam du lịch lại thích cái mà người ta đã thân thuộc từ quốc gia họ. Cái họ cần là muốn trải nghiệm những thứ khác lạ về phong cảnh thiên nhiên, cái bản sắc mang tính hồn cốt của người Việt. Điều ấy, dễ nhận biết thấy, vì sao một vài nơi như phố cổ thành phố Hà Nội, phố cổ Hội An, quần thể di sản Cố đô Huế, những làng bản ở vùng cao còn hoang sơ đậm nét văn hóa bản địa lại hấp dẫn được không ít du khách nước ngoài đến tham quan, trải nghiệm đến vậy. Bởi thế, việc nhận biết, phát huy và truyền tải các giá trị văn hóa, lịch sử, bản sắc, phong tục tập quán địa phương vào công trình phong cảnh là chìa khóa để phát triển lĩnh vực Cảnh quan kiến trúc ở Việt Nam tiệm cận với thế giới.

5. Lấy con người làm chủ thể

Sự chú ý đến nhu cầu của người dùng là trách nhiệm của người làm nghề KTCQ, nhưng đôi lúc vì quá say sưa, dành quá là nhiều thời gian, tâm lực để nghiên cứu tìm hiểu về style phong cách, thủ thuật và cách thức thể hiện bản vẽ làm thế nào để cho ưa nhìn, thể hiện được tinh thần của tác phẩm, mà coi nhẹ tìm hiểu về tâm lý, nhu cầu sử dụng của đối tượng cần phục vụ, dẫn đến chức năng sử dụng của công trình bị hạn chế. Có lúc, chức năng sử dụng của công trình thiết kế chỉ được thể hiện ở một số góc độ căn bản, như bày đặt một số cái ghế để ngồi nghỉ, có một số khoảng sân phục vụ hoạt động ngoài trời, đường dạo chỉ thuần tuý là tạo lối đi…, thiếu sự chú ý đến nhân tố hệ sinh thái sinh thái, không gian và tâm lý sử dụng của những nhóm đối tượng (người cao tuổi, trẻ nhỏ, người tàn tật yếu thế,…).

Thay lời kết

Như thế, có thể thấy qua mỗi thời kỳ phát triển kinh tế xã hội thì lý luận, đối tượng, và nhiệm vụ nghiên cứu của lĩnh vực KTCQ cũng liên tiếp thay đổi theo xu thế phát triển tất yếu của thời đại: Từ phục vụ nhu cầu tận hưởng phong cảnh của một bộ phận quý tộc trong xã hội phong kiến đến phục vụ cả cộng đồng xã hội; từ tư tưởng chinh phục tự nhiên đến thích ứng và hòa đồng với tự nhiên; từ xây dựng phong cảnh lấy nét đẹp cách thức làm chủ đạo đến tôn nên vẻ đẹp tự nhiên, cùng với duy trì phát huy bản sắc văn hóa xã hội và bảo vệ hệ sinh thái sinh thái. Đây cũng chính là những vấn đề căn bản gợi mở để ngành KTCQ ở Việt Nam tiếp tục nghiên cứu trong xu thế hội nhập quốc tế.

PGS.tiến sỹ Đặng Văn Hà, tiến sỹ Trần Đức Thiện
Viện Cảnh quan kiến trúc và Cây cối đô thị, Trường Đại học Lâm nghiệp
(Bài đăng trên Tạp chí Kiến trúc số 07-2021)


Tài liệu tham khảo
1. Đặng Văn Hà, Chu Mạnh Hùng (2015). Giáo trình thiết kế không gian cảnh quan cây cối. NXB. Nông nghiệp
2. Appleton, J. (1975). The Experience of landscape. John Wiley, Chichester
3. Faludi (1987). A decision – centered view of environmental planning. Pergamon press.
4. Kaplan et al, .(1985). Cognition and environment: Function in an uncertain world. Praeger, New York.
5. McHarg,I.(1969). Design with nature. John Wiley & Sons, Inc
6. Steiner et al,. (1987). Ecological planning: restrospect and prospect. Landscape Jounal
7. Gadgil (1987). Diversity: Cultural and biological. Trends in Ecology and Evolution.
8. Forman, R.T.T.,(1995). Land mosaic: The ecology of landscape and regions. Cambridge University Press.

 

Thêm nhiều thông tin hấp dẫn với BdsNhaDat.com.vn



T.H

Tham gia thảo luận

So Sánh BĐS

So sánh