Phong thủy trong tổ chức môi trường cư trú truyền thống vùng Đồng bằng Bắc Bộ ☑

Phong thủy trong tổ chức môi trường cư trú truyền thống vùng Đồng bằng Bắc Bộ ☑


Trái với quan niệm phổ biến rằng, nhà ở cổ truyền vùng Đồng bằng Bắc bộ chủ yếu trở lại hướng Nam và hướng Đông Nam để đón gió mát, nghiên cứu cách đây không lâu cho thấy, có đến 50% số nhà dân gian trong vùng được coi là có xác định phương hướng xấu [6]. Điều này chứng minh bên cạnh điều kiện khí hậu, còn có những nhân tố khác có ảnh hưởng không nhỏ tới thể loại kiến trúc này. 1 trong những nhân tố đấy là thuật phong thủy. Kinh qua các chẳng hạn cụ thể, bài viết phân tích và nhận định vai trò của phong thủy trong việc chọn lựa vị trí và tổ chức hệ sinh thái trú ngụ cổ truyền vùng Đồng bằng Bắc bộ.

Phong thủy trong tổ chức môi trường cư trú truyền thống vùng Đồng bằng Bắc Bộ ☑
Ngoài sân trước hiên nhà, một không gian yên ả, yên bình

Có thể khẳng định, các học thuyết phong thuỷ tác động mạnh mẽ lên đời sống văn hoá của người Việt. Nhưng phong thuỷ khi du nhập vào Việt Nam đã được Việt hoá và dùng với cùng 1 cơ chế lỏng lẻo, linh động, thoả mãn nhu cầu tâm lý hơn là địa lý [7, tr. 78]. Điều đó được biểu hiện rất rõ rệt trong cách chọn lựa vị trí trú ngụ và tổ chức hệ sinh thái trú ngụ của người Việt vùng Đồng bằng Bắc bộ.

Chọn lựa vị trí trú ngụ

Tấm giại phía đằng trước hiên nhà

Theo dõi sự tạo thành và phân bố các vị trí trú ngụ của người Việt cổ thời Phùng Nguyên – Đông Sơn, chúng ta thấy về mặt không gian có sự rộng mở và tập trung xuống các vùng đồng bằng các sông lớn miền Bắc Việt Nam. Hầu như tất cả các điểm trú ngụ đó vừa thuận tiện cho đi lại làm ăn, vừa an toàn cho cuộc sống. Chúng thường được phân bố gần nguồn nước – trên các dải đất cao dọc hai bên những dòng sông hoặc quanh đầm hồ, cũng tựa như các cồn cát cao sát biển, và thường có đồi gò che chở, chẳng hạn như ở Làng Cả, Làng Vạc, Cổ Loa… vốn dĩ là các trung tâm trú ngụ quan trọng thời Đông Sơn [10, tr. 57, 159, 800]. Trịnh Cao Tưởng, sau thời điểm thăm dò khảo sát một vài làng Việt cổ vùng Đồng bằng Bắc Bộ, đã phát hiện các thế đất mà dân gian gọi là “thè lè lưỡi trai chẳng ai chính nó, khum khum gọng vó chẳng nó thì ai”, đều là các bãi bồi của những con sông, suối cổ [12, tr. 74]. Nhìn từ góc nhìn an toàn, việc chọn lựa vị trí trú ngụ như thế bảo đảm sự ổn định dài lâu do tránh được nguy cơ sạt lở.

Nhà thờ dòng họ Đỗ, hiện vẫn còn nguyên kiến trúc cách đây 3 thế kỷ

Tạ Đức cho hay, một vài làng Việt (vùng Đồng bằng Bắc Bộ) được dựng trên một quả đồi hay 1 doi đất ven sông được tin là mang hình rùa với đình, đền phía trên lưng rùa. Đây rõ nét là 1 quan niệm phong thuỷ [2, tr. 232-233]. Tương đương, làng Ngọc Trục, Đại Mỗ, Từ Liêm, thành phố Hà Nội trước kia được xem là nằm trên sống trâu. Làng phát triển chạy dài theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, và được chia ra 2 nửa, 50% nhìn về hướng Tây Nam – hướng tiếp xúc chính của làng hiện tại, 50% nhìn về hướng Đông Bắc – hướng sông Nhuệ (có thể là hướng tiếp xúc chính của làng trước kia, khi giao thông thuỷ đóng vai trò chủ đạo?). Còn dân cư làng Đa Ngưu, Tân Tiến, Châu Giang, Hưng Yên lại tin rằng thế đất của làng họ là thế đất hình trâu nằm, trong đó thôn Đa Ngưu tọa lạc ở chính vùng bụng trâu nên hợp với nghề thuốc Bắc [8, tr. 62]. Theo sách Địa lý tiện lãm, làng Đông Ngạc (Từ Liêm, thành phố Hà Nội) toạ lạc phong thuỷ lý tưởng: Xa xa về phía đông có núi Nùng án ngữ, phía Tây có núi Tản Viên (Ba Vì); bảy hồ nước phía bắc con đê tạo nên “nội minh đường”, còn sông Hồng chảy qua bên cạnh, tạo nên “ngoại minh đường” của làng; về phía Nam, các thổ sơn của những làng Cáo Đỉnh, Cổ Nhuế và Thuỵ Phương tạo nên “hậu chẩm” của làng [11, tr. 104]. Tại làng Mông Phụ (Đường Lâm), không gian trú ngụ tuy có độ cao chênh nhau không đáng kể, nhưng hướng nhà vẫn tuân thủ theo nguyên tắc “đầu gối sơn, chân đạp thuỷ”, nghĩa là dựa lưng vào chỗ cao và hướng ra chỗ thấp [11, tr. 102]. Đấy là lý do để cho các căn nhà trong làng có hướng nhìn rất đa dạng.

Tổ chức vị trí trú ngụ

Cấu trúc mạng lưới ngõ xóm tại Đường Lâm, Sơn Tây

Trong không gian trú ngụ thì quan trọng đặc biệt là việc chọn lựa vị trí xây dựng đình, vì đình được xem là nguyên khí của cả làng.

Mặc dầu đình sinh ra muộn hơn chùa, nhưng sau thời điểm xuất hiện và trong tiến trình phát triển, phần nhiều đình làng đã thay chùa phụ trách vai trò trung tâm văn hoá, tín ngưỡng làng xã. Chính ví lý do vậy, đình làng thường toạ lạc quan trọng nhất trong làng. Trong những làng ven sông, đình làng thường quay mặt ra bờ lõm của một khúc sông cong – bên bồi của dòng chảy [12, tr. 74]. Điều đáng lưu ý là không phải đình làng nào thì cũng toạ lạc cao ráo nhất trong làng như quan niệm của tương đối nhiều người. Trịnh Cao Tưởng cho hay, đình Phù Lưu, đình Hồi Quan (Bắc Ninh), đình Thổ Hà (Bắc Giang), đình Thuỵ Phương (thành phố Hà Nội) nằm tại vị trí thấp nhất làng [12, tr. 41-42]. Trên cơ sở đó, ông đánh giá: “Địa điểm dựng đình (làng vùng Đồng bằng Bắc Bộ) được chọn theo một tinh thần riêng, nhưng khoa phong thuỷ nói rộng ra là 1 nhân tố ý thức hệ được tiếp thu từ phương Bắc đã lý giải một hiện tượng Việt cổ theo tinh thần của chính nó” [12, tr. 75].

Điều dễ thấy là có rất nhiều ngôi đình được tổ chức dựa theo mô hình phong thủy lý tưởng. Chẳng hạn các đình Phú Hữu, Chu Quyến, Tây Đằng, Viên Châu, Mông Phụ (Hà Tây) đều sở hữu hướng trông về núi Ba Vì. Có lẽ rằng ngọn núi này đóng vai trò là tiền án của những đình nói trên.

Tuy vậy, do vùng Đồng bằng Bắc Bộ có địa hình kha khá phẳng phiu nên không phải lúc nào cũng có thể lợi dụng phong cảnh tự nhiên để làm những tiền án, hậu chẩm hay tả thanh long, hữu bạch hổ. Bởi vậy, nhiều đình làng đã dùng các tiểu phẩm phong thuỷ nhân tạo mang dấu ấn tượng trưng như giả sơn, hồ nước, cầu, tháp, cây xanh… để lý tưởng hoá kết cấu phong thuỷ tự nhiên. Ở nhiều đình làng, người ta xây dựng bình phong làm tiền án. Bình phong có vai trò làm chậm lại sự chuyển động của dòng khí, vì theo phong thuỷ gió mạnh là tà phong. Mặt tiền đình thông thoáng, soi bóng xuống mặt nước (sông, hồ… tự nhiên hay nhân tạo) hoặc nhìn ra cánh đồng thoáng rộng. Theo thuật phong thuỷ khí gặp nước thì tụ lại. Nước ở thấp nên mang nhân tố âm, đình ở cao nên mang nhân tố dương. Cả hai hợp lại tạo nên cặp âm dương hoàn chỉnh. Phía đằng trước đình làng thường có cây phong thuỷ (thường là cây đa). Ý nghĩa phong thuỷ bề mặt của chính nó là tụ khí, ẩn gió. Ý nghĩa sinh thái thực tiễn của chính nó là bảo vệ nguồn nước, tránh gió tránh nắng. Nhưng ý nghĩa sâu hơn là nó có công dụng tương tự như vật đánh dấu không gian trong nhận biết của người dân và hiệu ứng che chắn không gian của chính nó. Bởi vì lẽ đó, hình ảnh “cây đa, bến nước, sân đình” đã trở nên hết sức không còn xa lạ trong thâm tâm trí của các người Việt xa quê.

Sân trước của một nhà ở Đồng bằng Bắc Bộ

Các căn nhà dân gian trong một làng thường không được sắp xếp ở phía đằng trước cửa đình mà chủ yếu ở phía sau và trên những khu đất ở hai bên đầu hồi đình nối dài ra. Hướng của chúng cũng thường bị qui định bởi hướng đình. Chính vì thế mà thỉnh thoảng các căn nhà không được quay ra hướng tốt. Chẳng hạn trước kia 50% số nhà trong làng Ngọc Trục, Đại Mỗ, Từ Liêm, thành phố Hà Nội nhìn về hướng Tây Nam, cũng chính là hướng của chùa làng, nửa còn lại cùng với đình làng trở lại hướng Đông Bắc – nhìn ra sông Nhuệ. Cách xác định phương hướng này để cho phần nhiều các căn nhà bị nóng vào mùa hạ và lạnh về mùa đông. Tác động của phong thuỷ trong làng này hiện tại vẫn còn mạnh đến nỗi các căn nhà dân gian còn lại vẫn không thay đổi hướng cũ dù rằng chúng chắc chắn có thể được xoay theo các hướng khác thích hợp hơn. Những làng ven sườn đồi lại có nguyên tắc tổ chức riêng: Đầu gối sơn, chân đạp thuỷ (dựa lưng vào đồi và hướng ra khoảng không). Điều đó cũng hoàn toàn thích hợp với các nguyên tắc phong thuỷ.

Việc xác định phương hướng căn nhà chính theo hướng của đình làng chắc rằng dẫn tới một cấm kị phổ biến là kiêng làm nhà mới có đầu hồi chĩa thẳng vào mặt nhà hàng xóm [9, tr. 41]. Một cấm kị khác được dân gian đúc kết trong câu nói “góc ao đao đình”, có nghĩa là tránh làm nhà ở góc ao hay bị đầu đao của đình chĩa thẳng vào nhà. Nhiều học giả đã tìm cách giải mã câu nói trên, trong đó cách lý giải của Tạ Đức là có vẻ hợp lí hơn cả khi cho rằng, tục kiêng trên vừa khởi nguồn từ quan niệm kị những từ gở xấu, vừa từ 1 quan niệm phong thuỷ. Nguyên nhân là, một khi hướng đình là hướng đẹp thì dĩ nhiên các hướng khác đâm chéo vào đình (có nghĩa là hướng của góc ao đình và đao đình) là xấu. Mặt khác, đao đình cong vút được xem là 1 sản phẩm đẹp mắt quyến rũ của đình, được ví như mái đình nở hoa, nhưng đao là tên 1 loại vũ khí sắc, từ góc cũng gợi một vật nhọn – gợi sự hiểm nguy nên không thể để hướng vào nhà [2, tr. 82].

Mặt tiền nhà thường có khoảng không phẳng phiu rộng thoải mái (sân trước). Cổng ít khi được sắp xếp đối mặt với căn nhà chính, vừa tăng sự kín kẽ, vừa tránh bị luồng tà phong thổi thẳng vào trong nhà

1 trong những nguyên tắc phổ biến khác của phong thuỷ là tránh làm nhà đối mặt với trục đường. Đây là 1 trong các nguyên nhân để làng xã cổ truyền vùng Đồng bằng Bắc Bộ thường xuyên có bố cục mở. Đường làng ngõ xóm ít khi bị chặn bởi một công trình kiến trúc, vì vậy có thể dễ dàng phát triển theo hướng tiếp tục nối dài nếu khả năng đất đai cho phép. Trong trường hợp bất khả kháng, người ta chôn chó đá ở cuối đường/ngõ để hạn chế luồng tà phong thổi vào bên phía trong khuôn viên của căn nhà [3, tr. 286], [1, tr. 212], [4, tr. 232-233].

Phía bên trong khuôn viên các căn nhà, đặc biệt là nhà của những gia đình khá giả, phần nào thì cũng bị qui định bởi thuật phong thuỷ. Nhìn bao quát, mặt tiền nhà thường có khoảng không phẳng phiu rộng thoải mái (sân trước). Cổng ít khi được sắp xếp đối mặt với căn nhà chính, vừa tăng sự kín kẽ, vừa tránh bị luồng tà phong thổi thẳng vào trong nhà. Theo điều tra hồi cố, trước kia một vài nhà dân gian vùng Đồng bằng Bắc Bộ có cổng nhà nằm trên trục đối xứng của nhà chính. Hình vẽ của P. Gourou về xóm Chuật, làng Phượng Vỹ (thôn Mỹ Xá, huyện Thanh Liêm, Hà Nam) cũng cho thấy 2/60 nhà (3,33%) trong xóm có cổng nằm đối mặt với nhà chính. Trong trường hợp này, cần thiết phải có 1 tấm bình phong cản trở hướng nhìn từ phía bên ngoài vào bên phía trong, đồng thời chặn lại luồng tà phong. Phía đằng trước bình phong thường là bể nước mưa, hứng nước từ trên các cây cau trồng cạnh đó. Cách bố cục này làm chúng ta liên tưởng tới bố cục phổ biến của những căn nhà vườn ở Huế, nhất là nhà của những gia đình quyền quí. Nhiều khả năng, nhà vườn Huế là nơi lưu giữ một đặc thù bố cục cũ đã mờ nhạt của khu vực trung tâm là vùng Đồng bằng Bắc Bộ. Cần nói thêm là từ khía cạnh tính năng, địa điểm bể nước mưa cũng như cách hứng nước mưa như trên là hoàn toàn bất hợp lý. Bởi vậy, chắc chắn nó phải mang 1 ý nghĩa tâm linh nào đấy.

Trong một vài nhà dân gian, ngoài bức bình phong người ta còn sắp xếp các tấm giại bằng tre đan ở phía đằng trước hiên, đối mặt các gian chính. Nhiều lúc tấm giại còn được sắp xếp cả ở phía đằng trước gian phụ nếu nhà có hiên chạy suốt chiều dài nhà. Bình luận về những tấm giại này, Pierre Gourou cho rằng chúng cần cho sự yên tĩnh của tổ tiên hơn là cho tiện nghi của người sống, do chúng được sắp xếp trước gian có bàn thờ tổ tiên [3, tr. 261].

Quan niệm phong thuỷ cũng dẫn tới một cấm kị phổ biến khác là không đào giếng khơi bên phía trong khuôn viên nhà, sợ rằng có thể chạm long mạch làm phương hại đến sự thành đạt và phồn thịnh của làng [11, tr. 130]. Nguồn nước sạch chủ yếu được lấy từ giếng làng (thỉnh thoảng là nguồn nước ăn đặc biệt nhất). Điều này nâng cao địa thế của giếng làng trong đời sống cộng đồng và biến nó trở thành một vị trí giao tiếp quan trọng. Tuy vậy, kinh qua thời gian cấm kỵ này đã bị loại ra bỏ chủ yếu do sự không tiện dụng trong sinh hoạt. Thăm dò ý kiến hiện tại cho thấy có khá nhiều căn nhà dân gian đã đào giếng ngay trong khuôn viên ngôi nhà mình.

Phong thuỷ có thể được xem là một môn khoa học có chủ đích tổ chức hệ sinh thái sống của con người, để cho con người chung sống hài hoà với tự nhiên theo cách tận dụng những lợi thế và hạn chế những không có lợi của ngoại cảnh

Cũng phải chú ý rằng, một vài nước Đông Nam Á khác cũng có những luật lệ dân gian liên quan đến việc xác định phương hướng căn nhà. Ví dụ ở Java – Indonesia, phần nhiều nhà cổ truyền được xác định vị trí theo tín ngưỡng dân gian và những biểu tượng trừu tượng mà dường như không hề quan tâm đến điều kiện khí hậu. Ở đây, hướng Đông (mặt trời mọc) được xem là liên quan đến sự sống, còn hướng Tây (mặt trời lặn) liên quan đến cái chết. Người ta tin rằng những căn nhà trở lại hướng Đông – Tây khi mặt trời mọc và lặn sẽ mang tới cho gia đình tất cả các điều bất hạnh, trái lại người chủ của các căn nhà trở lại hướng Bắc – Nam sẽ nhận được rất nhiều may mắn [13, tr. 117, 119].

Bỏ qua những nhân tố mê tín dị đoan, phong thuỷ có thể được xem là một môn khoa học có chủ đích tổ chức hệ sinh thái sống của con người, để cho con người chung sống hài hoà với tự nhiên theo cách tận dụng những lợi thế và hạn chế những không có lợi của ngoại cảnh. Mặc dù cho vẫn còn rất là nhiều những điều huyền bí chưa được khám phá, nhưng chính những quan niệm tồn tại từ rất lâu đời về thuật phong thuỷ đã đóng góp phần tạo dựng một nét bản sắc khá độc đáo trong kiến trúc và quần cư của người Việt nói chung và vùng Đồng bằng Bắc Bộ nói riêng.

tiến sỹ.KTS Khuất Tân Hưng
Trường Đại học Kiến trúc thành phố Hà Nội

(Bài đăng trên Tạp chí Kiến trúc số 04-2016)

––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  • Đào Duy Anh (2002), Việt Nam văn hoá sử cương. Nhà Xuất bản Văn hoá Thông tin, thành phố Hà Nội.
  • Tạ Đức (1999), Nguồn gốc và sự tiến lên của kiến trúc – biểu tượng và ngôn ngữ Đông Sơn. Hội Dân tộc học Việt Nam, thành phố Hà Nội.
  • Gourou, P. (2002), Người nông dân châu thổ Bắc Kỳ (Bản dịch). Nhà Xuất bản Trẻ, TP Hồ Chí Minh.
  • Trần Đức Hạnh (2004), Kiến trúc nhà ở dân gian tỉnh Hà Tây. Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Kiến trúc Hà nội.
  • Nguyễn Văn Huyên (2005), Văn minh Việt Nam. Nhà Xuất bản Hội Nhà văn.
  • Khuất Tân Hưng (2007), Mối liên hệ giữa văn hóa và kiến trúc trong nhà ở dân gian vùng Đồng bằng Bắc bộ. Luận án TS, Trường Đại học Kiến trúc Hà nội.
  • Nguyễn Luận (2001), Nét quê xứ Bắc. Kiến trúc, 1 – 2001, tr. 78.
  • Nguyễn Quang Ngọc (1986), Về một vài làng buôn ở ĐBBB thế kỷ XVIII, XIX. Luận án PTS Khoa học Lịch sử, tr. 62.
  • Ngô Huy Quỳnh (2000), Tìm hiểu lịch sử kiến trúc Việt Nam. Nhà Xuất bản Xây dựng, thành phố Hà Nội.
  • Chử Văn Tần (2003), Văn hóa Đông Sơn, văn minh Việt cổ. Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội, thành phố Hà Nội.
  • Nguyễn Tùng (2002), Về không gian làng. Làng ở vùng châu thổ Sông Hồng: Vấn đề còn bỏ ngỏ. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Đất nước.
  • Trịnh Cao Tưởng (1994), Đình làng Phù Lão – Hà Bắc trong nền tảng đình làng Bắc Bộ. Luận án PTS Khoa học Khảo cổ, Viện Khảo Cổ học.
  • Santosa, M., 1998. The relation between spatial formation and socio-cultural and physical phenomena. Environment-behaviour research on the Pacific rim (The 11th international conference on people and physical environment research). University of Sydney, Australia.

Thêm nhiều thông tin hấp dẫn với BdsNhaDat.com.vn



T.H

Tham gia thảo luận

So Sánh BĐS

So sánh